16.9.07

Quan niệm của Hêgen về bản chất của triết học







GS, PTS Nguyễn Trọng Chuẩn-Tạp chí Triết học





Trong số các nhà triết học vĩ đại nhất, không thể không kể tới Gióocgiơ Vinhem Phriđrích Hêgen (1770-1831) - người đã cùng Lút vích Phoiơbăc và các nhà triết học Đức đương thời khác tạo ra một trong những tiền đề lý luận cần thiết cho việc hình thành chủ nghĩa Mác. Không chỉ là đại biểu tiêu biểu của nền triết học cổ điển Đức, Hêgen đã đem lại cho triết học địa vị vốn có và sứ mệnh cao cả của nó trong đời sống tinh thần nhân loại. Với những luận cứ sâu sắc và có cơ sở khoa học, Hêgen đã làm sáng tỏ đối tượng, chức năng và phương pháp của triết học, mối quan hệ của triết học với các khoa học khác và qua đó, trình bày một cách khúc chiết, đúng đắn bản chất của triết học.




Gần 2 thế kỷ đã trôi qua kể từ khi hệ thống triết học Hêgen ra đời, song ảnh hưởng của nó trong đời sống tinh thần nhân loại vẫn không ngừng tăng lên. Bởi lẽ, như Ph.Ăngghen đã khẳng định: "Hệ thống Hêgen bao trùm một lĩnh vực hết sức rộng hơn bất cứ hệ thống nào trước kia, và phát triển, trong lĩnh vực đó, một sự phong phú về tư tưởng mà ngày nay người ta vẫn còn ngạc nhiên... Vì Hêgen không những chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn là một nhà bác học có tri thức bách khoa nên những phát biểu của ông tạo thành thời đại... Nếu… đi sâu hơn nữa vào trong toà nhà đồ sộ, người ta sẽ thấy trong đó có vô số những vật qúy giá đến nay vẫn còn giữ được toàn bộ giá trị của chúng... Nói chung, với Hêgen, triết học đã đi đến điểm tận cùng, một mặt vì trong hệ thống của ông, ông đã tổng kết một cách hết sức hùng vĩ toàn bộ sự phát triển của triết học và mặt khác, vì Hêgen, dù không có ý thức, cũng đã chỉ cho chúng ta con đường thoát khỏi cái mớ bòng bong những hệ thống triết học để đi tới sự nhận thức thực sự tích cực về thế giới".




Trong suốt chiều dài lịch sử của mình, nhân loại đã lập nên biết bao chiến công hiển hách kể từ ngày Hêgen trở về cõi vĩnh hằng. song nó cũng đã phải hứng chịu biết bao tổn thất nặng nề. Một trong các nguyên nhân gây nên những tôn thất ấy là do chúng ta đã hành động mà thiếu một tư duy tỉnh táo và trước hết là thiếu một tư duy mang đậm sắc thái nhân văn - tư duy triết học, tư duy luôn đặt con người, số phận và khát vọng về tự do của nó lên hàng đầu. Điều đó cho thấy, nhân loại không thể sống thiếu triết học với bản chất nhân đạo vốn có của nó. Và hơn ai hết, chính Hêgen là nhà triết học đầu tiên không những đã ý thức được và nói rõ bản chất nhân đạo ấy của triết học, mà còn luận chứng cho nó một cách sâu sắc và khoa học. Với Hêgen, đấu tranh cho triết học là đấu tranh vì con người và ngược lại, phủ nhận hay khinh thường triết học là triệu chứng của một căn bệnh hiểm nghèo - bệnh thiếu tinh thần.




Trên cơ sở ý thức được một cách đầy đủ và sâu sắc địa vị quan trọng của triết học Hêgen trong lịch sử tư tưởng nhân loại và hơn nữa, từ nhận thức đúng đắn ý nghĩa hiện đại, vai trò lịch sử mới của di sản qúy giá ấy, các tác giả cuốn sách "Quan niệm của Hêgen về bản chất của triết học" đã tái tạo lại cách nhìn nhận, đánh giá của Hêgen về môn khoa học vĩ đại và thực sự nhân văn này. Với một hệ thống đồ sộ như triết học Hêgen, với một lập trường, một thế giới quan duy tâm biện chứng đạt đến điểm đỉnh nhu Hêgen và trong khuôn khô của một cuốn sách, thì việc hoàn thành nhiệm vụ nêu trên quả là hết sức khó khăn. Song, với một sự am hiểu, có thể nói là khá sâu sắc về triết học Hêgen và với một nỗ lực lớn trong cuốn sách này, các tác giả đã cố gắng thực hiện nhiệm vụ đó bằng một cách tiếp cận độc đáo là chỉ ra nguyên lý xuất phát của hệ thống triết học Hêgen và quá trình ông triển khai nguyên lý đó, nghĩa là làm sáng tỏ bản chất của triết học theo quan niệm của Hêgen.




Trong Chương I: "Hêgen với vấn đề đối tượng và phương pháp của triết học", bằng cách tiếp cận nêu trên, các tác giả đã cố gắng tái tạo quan niệm của Hêgen về triết học thông qua cách mà Hêgen xác định đối tượng của triết học, sự khác biệt giữa triết học và các khoa học khác, phương pháp của triết học từ xuất phát điểm hết sức độc đáo là nguyên lý về sức mạnh tuyệt đối của lý tính. Ở đây, các tác giả cuốn sách đã chỉ rõ, trong quan niệm của Hêgen, triết học có nhiệm vụ tìm kiếm bản nguyên đầu tiên của thế giới. Song, từ lập trường duy tâm khách quan và do sự tác động của các thành tựu văn minh trong thời đại mình, Hêgen đã coi lý tính là bản nguyên đầu tiên của thế giới và qua đó, ông đã thần thánh hoá lý tính, lấy nguyên lý về sức mạnh tuyệt đối của lý tính làm nguyên lý xuất phát cho hệ thống của mình. Các tác giả khẳng định, ở Hêgen, lý tính là vạn năng, có sức mạnh vô tận, tuyệt đối... chi phối tất cả các bình diện của một hệ thống triết học đồ sộ". Cũng như mọi hệ thống triết học khác, hệ thống triết học Hêgen được triển khai trên cơ sở luận chứng cho nguyên lý xuất phát đó từ nhiều phương diện khác nhau có liên quan mật thiết với nhau. Một đặc trưng nổi bật khác trong hệ thống triết học Hêgen, theo các tác giả, là ở chỗ, Hêgen đã giải quyết mọi vấn đề triết học trên nền tảng lịch sử tư tưởng triết học vô cùng phong phú, trước hết là tư tưởng triết học của các nhà triết học cổ điển Đức I.Cantơ, Phíchtơ, Senlinh. Hêgen "luôn quan niệm triết học của ông là sự kế tục và kết quả phát triển lịch sử của tu tưởng triết học. Và, trên thực tế, cái nuôi dưỡng triết học Hêgen không những là nền triết học Đức trực tiếp tồn tại trước nó... mà còn là toàn bộ lịch sử triết học".




Sau khi phân tích những luận chứng của Hêgen cho nguyên lý về sức mạnh tuyệt đối của lý tính từ sự phê phán quan niệm của I.Cantơ về tu duy (trong mục III - “Quan niệm của Hêgen về tư duy", các tác giả tiếp tục lý giải quan niệm của ông về sự khác nhau giữa triết học và nghệ thuật, tôn giáo. lịch sử triết học và các khoa học thực nghiệm. Cả trong vấn đề này, các tác giả cuốn sách cũng chỉ ra cho độc già thấy, ở Hêgen có những tư tưởng biện chứng sâu sắc, phản ánh chính xác hơn là phỏng đoán) một cách đúng đắn mối quan hệ giữa các lĩnh vực nhận thức này. Phần cuối của Chương này - "Một số nhận xét về phương pháp và đối tượng của triết học Hêgen", các tác giả đã đưa ra những nhận xét khái quát đối với những luận điểm của Hêgen về đối tượng và phương pháp của triết học. Với Hêgen, phương pháp triết học là phương pháp biện chứng, nó có nhiệm vụ luận chứng cho các cơ sở, tiền đề của triết học và qua đó, không những làm cho triết học thành một khoa học, mà còn phân biệt khoa học triết học với các khoa học khác. Đánh giá quan niệm của Hêgen về đối tượng của triết học, các tác giả viết: "Triết học chính là lĩnh vực hoạt động tinh thần nhằm khảo cứu cuộc sống , hoạt động của con người với tư cách một chỉnh thể xác định trong mối liên hệ với thế giới với tư cách một chỉnh thể. Đặc điểm này chứng tỏ rõ triết học là thế giới quan... Nó đặt ra các văn đề quan trọng nhất đối với con người... với tư cách một khoa học... Triết học không những phải dạy chúng ta cách thức xây dựng một khoa học mà cả cách thức xây dựng cuộc sống đích thực người... Triết học là sự chỉ đạo hành động, chỉ đạo cuộc sống".




Từ những đánh giá, nhận xét xác đáng quan niệm của Hêgen về bản chất của triết học trong toàn bộ hệ thõng triết học của ông, các tác giả đã trình bày một cách cụ thể hơn vấn đề này trong các tác phẩm triết học chủ yếu của Hêgen -"Hiện tượng học tinh thần", "Khoa học lôgíc", "Triết học tinh thần" ở Chương II và Chương III của cuốn sách.




Ở đây, một lần nữa, các tác giả cuốn sách chỉ rõ, nguyên lý về sức mạnh tuyệt đối của lý tính vẫn được Hêgen coi là nguyên lý xuất phát để giải quyết mọi vấn đề khác. Chính lập trường duy lý cực đoan đó đã tạo ra cả ưu điểm lân khuyết điểm của triết học Hêgen. "Lập trường triết học duy lý chủ nghĩa, các tác giả cuốn sách kết luận, đã cho phép Hêgen tạo dựng được một quan niệm chứa đựng rất nhiều hạt nhân hợp lý về bản thân triết học với tư cách một quá trình lịch sử có biện chứng riêng của mình. Hêgen quan niệm hệ thống triết học của ông là sự kế thừa và "vượt bỏ " tất cả các hệ thống triết học trước đó. Và đây là một đóng góp to lớn của Hêgen. Nhưng tuân thủ nguyên lý vê sức mạnh tuyệt đối của lý tính với tư cách bản nguyên của mọi tồn tại, với tư cách cái tự triển khai và tự nhận thức mình trong tiến trình phát triển lịch sử, Hêgen đã có một quan niệm bao chứa không ít những hạn chế về bản chất của triết học, về quá trình hình thành triết học với tư cách một khoa học".




Có thể nói , toàn bộ nội dung của cuốn sách này nhằm mục đích lý giải và làm sáng tỏ thêm những luận điểm nêu trên. Cách tiếp cận độc đáo đó của các tác giả đối với di sản triết học đồ sộ của Hêgen xứng đáng được coi là một khám phá khoa học mang tính gợi mở cho những ai quan tâm tới triết học Hêgen nói riêng, tới lịch sử triết học nhân loại nói chung. Làm rõ đặc trưng bản chất duy lý, tự biện và hết sức trừu tượng trong hệ thống triết học Hêgen, có thể nói, là một công việc không ít khó khăn. Song, với một trình độ hiểu biết sâu sắc về triết học Hêgen, với một sự cố gắng lớn, công trình khoa học đáng trân trọng này đã cho chúng ta thấy vì sao hệ thống triết học của Hêgen cùng với triết học Phoiơbăc nói riêng, nền triết học cổ điển Đức nói chung được coi là một trong những tiền đề lý luận của chủ nghĩa Mác. Rằng triết học Mác đã kế thừa một cách có phê phán và cách mạng như thế nào đối với những di sản tinh thần của quá khứ khi tiếp thu cái "hạt nhân hợp lý" trong triết học Hêgen.




Thiết nghĩ, với việc làm rõ cái "hạt nhân hợp lý " trong hệ thống triết học đồ sộ của Hêgen - phép biện chứng, nhấn mạnh tinh thần đấu tranh của Hêgen với thuyết không thể biết, đánh giá cao quan điểm về lịch sử, niềm tin của Hêgen vào sức mạnh và khả năng lý tính của con người, các tác giả cuốn sách đã cho độc giả thấy rõ, vì sao cho đến nay, Hêgen và hệ thống triết học của ông đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong tất cả các lĩnh vực của triết học. Công trình khoa học này xứng đáng được coi là một đóng góp bổ ích cho công việc nghiên cứu, giảng dạy và tìm hiểu về nguồn gốc hình thành triết học nói chung, phép biện chứng duy vật nói riêng, cho việc nghiên cứu, giảng dạy và tìm hiểu lịch sử triết học nhân loại.




(Theo Tạp chí Triết học-Chungta)

Thế nào là một bài viết có tính triết học?

(Nguyễn Hữu Đễ-Tạp chí Triết học)

Thông qua bài viết này, tác giả đưa ra những ý kiến trao đổi xoay quanh vấn đề đánh giá tính triết học của một bài viết. Sau khi phân tích một số điểm cần có sự thống nhất, tác giả đã luận giải để làm rõ ràng, một bài viết được coi là có tính triết học phải thể hiện được ít nhất một trong những nội dung sau: 1) Đề cập đến những vấn đề triết học chung, 2) Nêu lên những vấn đề triết học cuộc sống, 3) Đề cập đến những vấn đề của các khoa học khác từ góc độ triết học. Theo tác giả, đây là vấn đề không đơn giản, không dễ dàng. Vì vậy, để có sự lý giải thực sự thuyết phục, có tính khoa học và sớm xác định hệ tiêu chí đánh giá cụ thể, chính xác về tính triết học của một bài viết, cần có sự nghiên cứu, trao đổi của các chuyên gia trong lĩnh vực này.


Vấn đề "Thế nào là một bài viết có tính triết học?" tưởng như đơn giản, nhưng để có tiêu chí đánh giá một cách cơ bản, thống nhất, được nhiều người nhất trí lại cần phải được phân tích, trao đổi, thảo luận một cách sâu sắc hơn, cụ thể hơn. Vì vậy, có thể nói, đây là vấn đề đã xuất hiện từ lâu nhưng việc trả lời một cách thoả đáng lại không hề dễ dàng, nhất là trong tình hình người nghiên cứu triết học được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin như hiện nay.

Để lý giải vấn đề này, trước hết chúng ta cần thống nhất một số luận điểm cơ bản nhằm phân biệt triết học với các lĩnh vực tri thức khác ngoài triết học. Tôi nói "ngoài triết học” chứ không phải là "các khoa học khác". Bởi nói "ngoài triết học" sẽ bao trùm được nhiều lĩnh vực hơn, chẳng hạn như quan điểm sống, quan điểm chính trị, tư duy thường ngày… Lâu nay, chúng ta vẫn thường nhất trí một cách khái quát rằng, triết học khác các khoa học khác ở chức năng thế giới quan và phương pháp luận của nó. Đối tượng nghiên cứu của triết học là toàn bộ thế giới vật chất và tư duy của con người. Phương pháp nghiên cứu của nó là khái quát hoá, trừu tượng hóa cao nhất, là đi từ trừu tượng đến cụ thể, là kết hợp logic - lịch sử ở tầm bao quát nhất…

Nói tóm lại, cái mà triết học nghiên cứu là rộng nhất, bao trùm nhất, gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Vì thế, phương pháp nghiên cứu của nó cũng phải “lớn” nhất, có thể dùng để nhận thức được về đối tượng nghiên cứu. Nhờ vậy, chúng ta có các luận điểm, quan điểm… ở tầm triết học, ở tầm khoa học liên ngành, ở các khoa học cụ thể và cả ở tầm đời thường ngày. Điều đó lý giải rằng, tại cùng một quan niệm, khái niệm, phạm trù lại được nhiều ngành sử dụng như vậy. Và khi sử dụng ở các tầm khác nhau như thế nội dung của nó đã ít nhiều thay đổi rộng hơn hoặc hẹp hơn, sâu sắc hoặc kém sâu sắc hơn.

Luận điểm thứ hai chúng ta cần nhất trí là, khi nói một bài viết nào đó có tính triết học, trước hết bài viết ấy phải dựa trên cơ sở triết học Mác - Lênin. Như chúng ta biết, cho đến nay, triết học Mác - Lênin vẫn là đỉnh cao của tư duy triết học loài người và bản thân triết họe Mác - Lênin đã bao chứa trong nó toàn bộ tinh hoa tư tưởng triết học của nhân loại trước đó. Vì thế, khi xây dựng đường lối xây dựng xã hội mới ở nước ta hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có triết học, và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận.

Tất nhiên, ai đó có thể phủ nhận điều này mà bài viết của người đó vẫn có thể có tính triết học (vì rất nhiều nhà tư tưởng trước C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin cũng như các tác gia triết học hiện đại sau này đều là những nhà triết học và không thể nói các tác phẩm của họ không có tính triết học), nhưng đó là triết học xa rời thực tế và ít nhiều không phản ánh đúng hiện thực khách quan. Giả sử sau này có một hệ thống triết học khác cao hơn triết học Mác - Lênin thì trong trường hợp như vậy, một bài viết từ lập trường triết học Mác - Lênin cũng vẫn được coi là có tính triết học. Tất nhiên, ở đây, chúng ta đề cập đến vấn đề từ một lập trường được coi là duy nhất đúng đắn, tuy nó vẫn cần tiếp tục có sự bổ sung và phát triển. Xa rời lập trường đó, bài viết đã coi như bị loại bỏ mà không cần xét thêm gì nữa.

Một luận điểm nữa mà chúng ta cũng cần có sự nhất trí, đó là xem xét triết học Mác - Lênin theo phân tầng cấu trúc của nó. Có thể xem xét nó như là triết học chung, triết học xã hội, triết học chính trị, triết học văn hoá, triết học đạo đức... Điều này liên quan đến vấn đề vận dụng triết học Mác - Lênin để giải quyết các vấn đề cụ thể hay là mở rộng triết học Mác - Lênin sang các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, hoặc là nghiên cứu các lĩnh vực khác đó theo cách tiếp cận triết học. Bởi vì, dù những vấn đề đó được lý giải theo phương diện nào thì một bài viết thể hiện được một trong những phương diện ấy cũng đã mang tính triết học rồi. Về ý này, tác giả biên soạn cuốn Những kiên giải về triết học khoa học đã viết: "Triết học là tinh hoa của tinh thần thời đại nên nó không những phát triển theo một mặt bằng mà còn theo khối, theo tầng lớp: thứ nhất là lý luận cơ bản về bản thân triết học, thứ hai là sự kết hợp giữa triết học và cuộc sống hiện thực, thứ ba là sự giao thoa giữa triết học và các ngành khoa học khác". Theo đó, bài viết sẽ có tính triết học nếu nó thể hiện được ít nhất một trong ba nội đung trên.

Trên cơ sở sự nhất trí trên, có thể nói rằng, một bài viết có tính triết học phải thể hiện được một trong những ý sau:

Thứ nhất, thông qua việc luận giải, khái quát những thành tựu của các khoa học khác, bài viết minh chứng cho một luận điểm, quan điểm nào đó của triết học (chẳng hạn, chứng minh mối liên hệ phổ biến hoặc các quy luật của phép biện chứng…).

Thứ hai, từ các quan điểm, luận điểm của triết học Mác - Lênin, tác giả làm rõ cơ sở lý luận và phương pháp luận cho những nghiên cứu của một ngành khoa học nào đó. Đây có thể tạm coi là sự cụ thể hoá vai trò của triết học trong mỗi ngành khoa học cụ thể.

Thứ ba, trên cơ sở những thành tựu và phát minh mới của các ngành khoa học khác, bài viết làm sâu sắc hơn, phong phú hơn (hoặc đưa ra quan điểm triết học mới) những nội dung của hệ thống quan điểm triết học Mác - Lênin.

Như vậy, một bài viết có tính triết học phải thể hiện được ít nhất một trong những nội dung trên. Dựa trên những tiêu chí đó, chúng ta sẽ có những bài viết thuần tuý triết học, có những bài viết thể hiện quan điểm triết học và có những bài viết nghiên cứu các vấn đề đặt ra từ quan điểm triết học. Điều đó có thể được coi là tương ứng với các cấp độ cấu trúc của triết học: triết học, triết học ứng dụng và ứng dụng triết học. Nếu nhìn theo lát cất khác, ta có triết học bao gồm cả mặt bản thể luận và nhận thức luận, triết học bản thể luận, triết học nhận thức luận. Tương ứng với chúng, ta có những ngành triết học trong những lĩnh vực cụ thể của thế giới khách quan: triết học khoa học, triết học xã hội, triết học văn hoá...

Qua đó ta thấy, để đánh giá một bài viết có tính triết học hay không, trước hết phải quy bài viết đó thuộc về đồng nào, từ đó chỉ ra nội dung của nó đã đáp ứng được yêu cầu của dạng đó hay chưa. Nếu không làm như vậy, người ta rất có thể đưa ra nhận xét về một bài viết hoặc là thiếu, hoặc là không có tính triết học. Nhưng khi đặt vấn đề bài viết đó "thiếu” hoặc "không" có tính triết học như thế nào thì người đánh giá lại rất lúng túng, hoặc trả lời một cách chung chung và mơ hồ. Nếu không dựa trên một tiêu chí hoặc một hệ tiêu chí cụ thể nào đó, việc đánh giá một bài viết có tính triết học hay không rất dễ rơi vào một trong các trường hợp sau:

Đánh giá một cách chủ quan, cảm tính.

Không có sự thống nhất trong Hội đồng hoặc nhóm những người đánh giá. Người này dựa vào tiêu chí này đánh giá là "không", nhưng người khác lại nói là "có". Về vấn đề này, ta có thể nêu thí dụ sau để minh họa. Chẳng hạn, một bài viết về quan hệ giữa giáo dục - đào tạo và vấn đề phát huy nguồn lực con người. Nội dung bài viết trình bày vai trò của giáo dục - đào tạo đối với việc xây dựng nguồn lực con người có chất lượng cao, phân tích khá sâu những vấn đề thuộc giáo dục - đào tạo, chẳng hạn như vốn đầu tư, công nghệ giáo dục và một loạt các thành tựu giáo dục - đào tạo của các nước như Singapo, Đài Loan, Hàn Quốc… được đưa ra làm dẫn chứng. Khi đánh giá bài viết này, có ý kiến cho rằng, bài viết ít tính triết học mà thiên về ngành giáo dục - đào tạo. Nhưng lại có ý kiến khác cho rằng, triết học chính là mối liên hệ biện chứng và bài viết đã phân tích được mối quan hệ giữa giáo dục - đào tạo và phát huy nguồn lực con người, nên có tính triết học. Tất nhiên, đây chỉ là thí dụ, song nó khá điển hình trong việc đánh giá các bài viết, luận văn, luận án những năm gần đây. Một bài viết triết học, một luận văn, luận án triết học mà dung lượng khá lớn dành cho những vấn đề cụ thể, trong khi chức năng thế giới quan, phương pháp luận của triết học không hề được xét đến thì có thể coi là bài viết thuộc lĩnh vực triết học được chăng? Còn mối liên hệ, có khoa học nào hoặc sự kiến giải khoa học nào lại không đề cập đến? Khoa học nói chung có thể nghiên cứu cái gì ngoài những mối liên hệ? Trên thực tế, chính vì không có tiêu chí rõ ràng về vấn đề này nên nhiều học trò hay người viết đã phải hứng chịu sự đánh giá chủ quan của người thẩm định. Hệ quả là người ta phải cố tạo nên "quan hệ tốt" với người đánh giá. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân sinh ra tiêu cực trong quan hệ giữa người được đánh giá và người bị đánh giá.

Hiện nay, còn có tình trạng người viết thuộc lĩnh vực triết học chỉ chú trọng đến những vấn đề cụ thể do xã hội đặt ra, mà quên đi cơ sở lý luận triết học Mác - Lênin. Vì thế, để bài viết "có tính triết học", tác giả cố gắng có nhiều trích dẫn C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin. Theo họ, như thế sẽ đảm bảo tính triết học của bài viết. Thực ra, trong một nghiên cứu nghiêm túc, việc trích dẫn các tác giả kinh điển chỉ được dùng đến khi thật cần thiết. Như chúng ta đã biết, nếu tác giả là người đang học tập triết học thì việc trích dẫn là cần thiết, nhưng đối với người làm công tác nghiên cứu triết học thì lại không nên quá chú trọng vào điều đó. Vấn đề là ở chỗ, người nghiên cứu phải nắm được cái "thần" trong quan điểm, luận điểm của các tác gia kinh điển để từ đó, phát triển lên, chứ không phải dẫn nguyên văn, nguyên ý của những người đi trước. Hơn nữa, việc trích dẫn hiện nay thường theo hướng: sau khi trình bày nội dung cơ bản của câu văn định trích dẫn, tác giả lại trích dẫn chính câu văn đó với hàm ý rằng, chính các nhà kinh điển đã khẳng định như vậy. Việc tiếp theo cần triển khai như thế nào thì rất ít người làm được. Vì vậy, có người có nhiều bài viết, nhiều công trình song ít được người trong ngành chú ý đến với tư cách nhà khoa học. Thực trạng này không chỉ diễn ra trong ngành triết học, mà còn biểu hiện trong một số ngành khoa họe xã hội khác nữa. Chúng ta đã biết rằng, hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin đồ sộ như vậy, nhưng khi đánh giá sự đóng góp thực sự của các ông, người ta thường chỉ nói đến hai nội dung chính: chủ nghĩa duy vật lịch sử chủ yếu là quan điểm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư.

Vì vậy, đối với người nghiên cứu, khi viết bài nên chú trọng đến ý tưởng mới hoặc cách đặt vấn đề mới hơn là việc "tầm chương trích cú”. Tính triết học của một bài viết không phụ thuộc vào việc trích dẫn tư tưởng các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác. Nhưng, làm thế nào để bài viết có tính triết học? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần lưu ý đến một số khía cạnh sau:

Thứ nhất, việc lựa chọn đề tài nghiên cứu. Phải thấy được vấn đề triết học trong đối tượng được lựa chọn. Nói cách khác, sự vật, hiện tượng được chọn là có vấn đề về mặt thế giới quan hoặc phương pháp luận. Theo ngôn ngữ khoa học, đó là "tình huống có vấn đề”.

Thứ hai, phương pháp trình bày. Bài viết được trình bày theo logic của sự vật, hiện tượng để dẫn tới kết luận có tính chất thế giới quan hay phương pháp luận, hoặc từ thế giới quan, phương pháp luận triết học, bài viết phân tích vấn đề nhằm chỉ ra bản chất, nguyên nhân của sự vật, hiện tượng đó.

Thứ ba, phần giải pháp. Đây là hệ quả của sự phân tích trên, được thể hiện ở việc khẳng định những luận điểm, quan điểm của triết học Mác - Lênin hoặc đưa ra những luận điểm, quan điểm mới mang ý nghĩa thế giới quan, phương pháp luận. Bài viết phải tránh đi vào những giải pháp cụ thể, bởi như thế, vô hình trung, triết học lại làm thay các khoa học khác hoặc các ngành khác. Trên thực tế, triết học không bao giờ có thể làm thay những công việc cụ thể đó và không bao giờ đạt được những kết luận như các khoa học cụ thể trực tiếp đưa ra. Chúng ta không bao giờ được quên chức năng chính của triết học là thế giới quan và phương pháp luận. Đưa ra các giải pháp cụ thể là chức năng của các ngành khoa học cụ thể có liên quan. Cũng vì lý do đó mà chủ nghĩa Mác được chia thành ba bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Trong đó, chủ nghĩa cộng sản khoa học là hệ quả tất yếu của hai bộ phận kia. Vì vậy, nhiều tác phẩm của Mác thuộc chủ nghĩa cộng sản khoa học hơn là tác phẩm triết học.

Tất nhiên, để đạt được những điều này, ít nhất người viết phải có kiến thức triết học căn bản. Đây là một yếu tố có ảnh hưởng quyết định đối với tính triết học của bài viết.

Có thể có rất nhiều người không đồng ý hoặc phản bác toàn bộ những kiến giải trên đây. Bởi lẽ, vấn đề tiêu chí của một bài viết có tính triết học và làm thế nào để bài viết có tính triết học không đơn giản chỉ như những nội dung mà tôi đã trình bày. Để có được cách lý giải thật sự thuyết phục và có tính khoa học, chúng ta cần đi sâu tìm tòi, tổng kết, tập hợp nhiều hơn nữa ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực này. Mục đích của tác giả bài viết này chỉ nhằm nêu ra vấn đề tưởng như rất cũ, rất đơn giản (vì xưa nay chúng ta vẫn làm và làm thường xuyên) để góp vào việc xác định một hệ thống tiêu chí cụ thể, vừa giúp người thẩm định bài viết thuộc lĩnh vực triết học có cơ sở để đánh giá chuẩn xác, vừa giúp người viết khỏi lạc đề khi viết bài về lĩnh vực triết học và cũng là cơ sở để họ có thể tranh luận với người thẩm định. Với mục đích đó, tôi mong mọi người hãy đưa ra những tiêu chí của mình (vì bất cứ ai, với tư cách thầy giáo, người hướng dẫn, người phản biện… đều đã từng nhận xét tính triết học của một bài viết, cho nên họ đều đã có tiêu chí để đánh giá) và trên cơ sở đó, sớm hình thành nên hệ thống tiêu chí theo cấp độ sau:

(1) Chung nhất, khái quát nhất.(2) Chi tiết hơn, cụ thể hơn.(3) Hoàn chỉnh hơn, khoa học hơn.
Cuối cùng, tôi thừa nhận rằng, những tiêu chí mà tôi đưa ra ít nhiều còn mang tính chủ quan, vì chúng chưa được chứng minh và luận giải một cách đầy đủ, khoa học và chắc chắn còn nhiều vấn đề mà bài viết này chưa thể đề cập đến. Rất mong được mọi người quan tâm trao đổi.

(Theo Tạp chí Triết học, chungta)