31.12.07

Các quan điểm khác nhau trong lịch sử triết học

Về vấn đề mưu cầu hạnh phúc cá nhân
và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta hiện nay
PGS, PTS. Nguyễn Tấn Hùng
(Tạp chí Triết học)
Hạnh phúc và mưu cầu hạnh phúc cá nhân là vấn đề luôn được quan tâm trong lịch sử triết học. Bài viết điểm qua các quan niệm trong lịch sử triết học - cả phương Đông và phương Tây - về vấn đề quan trọng này. Từ đó, bài viết nêu lên quan điểm của chủ nghĩa Mác: phản đối những quan điểm hạnh phúc mang tính ảo tưởng, cực đoan, hạnh phúc cá nhân không thể tách rời hạnh phúc cộng đồng, quan niệm về hạnh phúc phải được xem xét từ phương diện toàn diện và lịch sử cụ thể, vấn đề hạnh phúc liên quan chặt chẽ đến sự xác định và thực hiện lý tưởng sông của mỗi cá nhân… Thông qua cách nhìn mácxít về hạnh phúc, bài viết xác định một vài vấn đề đang đặt ra trong xã hội ta hiện nay.

Trong cuộc sống của mỗi người, ai cũng hướng tới mục đích mưu cầu hạnh phúc. "Quyền được mưu cầu hạnh phúc" là một trong những quyền con người đã được nêu lên trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Độc lập của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1945. Đây không chỉ là vấn đề chính trị và đạo đức, mà còn là một vấn đề triết học, nó đã được đặt ra từ thời cổ đại và được tranh luận trong suốt lịch sử phát triển của triết học. Tìm hiểu cuộc tranh luận đó là việc làm cần thiết để có được những quan niệm đúng đắn về vấn đề này, bởi lẽ đây là vấn đề có ý nghĩa lớn trong việc xác định lẽ sống cho mỗi người, nhất là đối với việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Ở Ấn Độ cổ đại, chủ nghĩa khổ hạnh tôn giáo đòi hỏi cá nhân người tu hành phải hy sinh những ham muốn, dục vọng đời thường, dấn thân vào việc tu luyện khắc khổ để mong được giải thoát khỏi kiếp đời đau khổ nơi trần gian. Nó xuất phát từ triết lý trong Kinh Vêđa rằng, mọi đau khổ của con người đều xuất phát từ những ham muốn dục vọng cá nhân, chúng làm cho linh hồn cá thể (atman) mãi mãi gắn bó với thể xác trong một vòng luân hồi bất tận, là cái nghiệp gây ra hậu quả đau khổ ở kiếp sau. Nó có nhiều biểu hiện đa dạng, từ việc hạn chế ăn uống cho đến việc từ bỏ quan hệ tính dục. Ngoài ra, chủ nghĩa này còn có những biểu hiện cực đoan khác như suốt đời chỉ sử dụng một tay hoặc một chân, không dùng vải che thân… Tất cả những việc làm đó đều chỉ nhằm một mục đích duy nhất là mưu cầu sự bất tử và hạnh phúc vĩnh cửu cho linh hồn cá nhân người tu hành. Mục đích này có lẽ là điều hấp dẫn nhất của tất cả mọi tôn giáo trong lịch sử. Tuy nhiên, suy cho cùng, đây chỉ là điều mong ước chủ quan của con người, trái với quy luật khách quan và tính khả thi của nó không có gì chứng thực được. Nhà thiên văn học Mỹ nổi tiếng Carl Sagan đã có câu nói chí lý: "Thà rằng sự thật nghiệt ngã còn hơn điều tưởng tượng để an ủi".

Đối lập với chủ nghĩa khổ hạnh tôn giáo, phái Charvaka (còn gọi là Lokayata) - một trào lưu triết học duy vật vô thần ở Ấn Độ cổ đại - lại bác bỏ ảo tưởng ở kiếp sau, phản đối phương pháp tu luyện khổ hạnh. Họ khẳng định: quan niệm cho rằng những khoái lạc gắn với những sự vật cảm tính là không tránh khỏi đi liền với những đau khổ là những lý lẽ ngu ngốc. Nó cũng giống như bảo rằng chúng ta hãy ném bỏ những hạt thóc đi vì chúng gắn liền với cái vỏ trấu và bụi đất, không có thiên đường, không có sự giải thoát, không có linh hồn ở thế giới khác, không có nghiệp báo, không ai có thể thoát khỏi cái chết. Khi đã có cuộc sống thì bạn hãy sống một cách vui vẻ.

Quan điểm này, về cơ bản là đúng, nhưng còn mang tính chất thô thiển nên bị các khuynh hướng tôn giáo chống đối mãnh liệt và bị coi là một thứ chủ nghĩa khoái lạc.

Ở Trung Hoa, Việt Nam và một số nước khác, trong suốt thời kỳ phong kiến, tuy không biết đến biểu hiện cực đoan của chủ nghĩa khổ hạnh hay chủ nghĩa khoái lạc, nhưng lối sống của xã hội cũng chịu ảnh hưởng của hai khuynh hướng đối lập nhau. Trước hết là khuynh hướng nhập thế của Nho gia, chủ trương người trí thức phải học hành đến nơi đến chốn và đem tài năng của mình ra giúp đời, giúp nước. Hạnh phúc lớn nhất của người quân tử là được công hiến cho xã hội, lập được công danh. Khổng Tử đã từng phân biệt quan niệm về hạnh phúc của người quân tử với quan niệm của kẻ tiểu nhân. ông nói: "Quân tử nghĩ đến đức, tiểu nhân nghĩ đến chỗ ở, quân tử quan tâm đến phép tắc, tiểu nhân quan tâm đến ân huệ".

Ngược lại, những người theo phái Đạo gia (do Lão Tử sáng lập, Trang Tử phát triển) đã coi hạnh phúc cá nhân là ở cuộc sống vô vi, nhàn hạ, hòa hợp với tự nhiên. Sống hạnh phúc là sống thanh đạm, biết đủ, biết dừng, không tham lam, không bon chen, không cạnh tranh. Lối sống này cũng trở thành lối sống của nhiều người trí thức khi chưa gặp thời hoặc khi đã hoàn thành nghĩa vụ đối với xã hội.

Hai quan niệm về hạnh phúc của Nho gia và Đạo gia, tuy đối lập nhau về cơ bản, nhưng cũng có những khía cạnh tương đồng, như coi khinh và phản đối lối sống chạy theo lợi ích vật chất tầm thường, ích kỷ của cá nhân, gắn hạnh phúc với đạo đức, phản đối việc mưu cầu hạnh phúc bằng con đường bất chính... nên cả hai quan niệm đều được những người trí thức phương Đông, trong đó có những người trí thức Việt Nam, vận dụng trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống.

Trong triết học phương Tây, từ thời cổ Hy Lạp, cũng đã có cuộc đấu tranh gay gắt giữa chủ nghĩa khoái lạc và chủ nghĩa khổ hạnh, nhưng dưới những hình thức khác. Chủ nghĩa khổ hạnh Hy Lạp tuy không mang màu sắc tôn giáo, nhưng lại gắn liền với triết lý phủ nhận mọi giá trị của văn hóa, văn minh, coi văn hóa, văn minh là nguồn gốc của đau khổ, kêu gọi con người quay trở về với cuộc sống mông muội. Đó là lối sống của phái Xinich (Cynics) do Antixten (Antisthenes, khoảng 445 - 365 TCN), một môn đồ của Xôcrát, sáng lập và được Điôgien ở Xinôp (Diogenes of Sinope, khoảng 404 - 323 TCN.) phát triển. Phái này chủ trương thực hiện lối sống đạo đức bằng việc coi khinh và từ bỏ tất cả những thành quả của văn minh, văn hóa, sống một cuộc sống lang thang, rách rưới, bẩn thỉu như súc vật.

Bên cạnh phái Xinich còn có phái Xtôít (Stoicism), hay còn gọi là phái Khắc kỷ, do Dênôn ở Xiti (Zeno of Citium, khoảng 334 - 262 TCN), sáng lập, được nhà triết học Hy Lạp Epictetuyt (Epictetus, khoảng 55 - 135) và Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius ( 120 -180) phát triển. Phái Xtôít cho rằng, vũ trụ được điều khiển bằng lý trí (logos), bằng luật lệ tuyệt đối Người có lý trí là người hành động theo quy luật tự nhiên. "Hãy sống phù hợp với tự nhiên" là câu châm ngôn của phái Xtôít. Để đạt được hạnh phúc, phái Xtôít chủ trương sống có đạo đức có lý trí, dửng dưng trước tất cả mọi ham muốn vật chất. Bằng cách chế ngư được ham muốn và xúc cảm, những người Xtôít tin rằng có thể loại trừ được những tác động từ thế giới bên ngoài và tìm thấy sự yên bình bên trong tâm hồn.

Đối lập với các khuynh hướng khắc kỷ nêu trên, chủ nghĩa khoái lạc cũng phát triển mạnh trong suốt lịch sử triết học phương Tây, từ cổ đại đến hiện đại.

Phái Xirenait (Cyrenaics) do Arixtíp (Aristippus, khoảng 430 - 350 TCN.), một môn đồ của Xôcrát, sáng lập, là một thứ chủ nghĩa khoái lạc tầm thường, vị kỷ, đưa ra một học thuyết mà theo đó, sự thỏa mãn những dục vọng trực tiếp của cá nhân, không cần quan tâm đến người khác, được coi là mục đích tối cao. Những khoái cảm xác thịt, theo phái này, còn đáng giá hơn những niềm vui trí tuệ hư ảo và phức tạp. Thực tế lịch sử đã cho thấy sai lầm cơ bản trong quan điểm của phái này, vì khi cá nhân con người chạy theo những khoái cảm xác thịt tầm thường thì không thể có được hạnh phúc toàn diện, lâu dài được.

Trái với chủ nghĩa khoái lạc vị kỷ, chủ nghĩa khoái lạc Êpiquya, gắn với trường phái triết học do Êpiquya (Epicurus, 341 - 271 TCN) sáng lập, là một thứ chủ nghĩa khoái lạc lý tính. Phái Êpiquya cho rằng, khoái lạc chân chính chỉ có thể đạt được bằng lý trí. Họ đề cao những phẩm hạnh như tính tự chủ và sự cẩn trọng. Khoái lạc lớn nhất là ở cuộc sống bình dị và điều độ, tiêu dao với bè bạn và cùng đàm luận triết học với họ. Họ lập luận rằng, sẽ là không tốt nếu làm điều gì đó để có được khoái cảm nhất thời nhưng lại gây ra hậu quả xấu cho tương lai, chẳng hạn, sự hoang dâm quá độ sẽ có hậu quả bất hạnh về sau.

Ở thế kỷ XVIII và XIX, những nhà triết học Anh, như Gierơmi Bentam (Jeremy Bentham, 1748 - 1832), và Giôn Xtuat Minlơ (John Stuart Mill, 1806 - 1873) đã đề xuất học thuyết khoái lạc phổ quát, được gọi là chủ nghĩa vị lợi. Theo Bentam, tiêu chuẩn cuối cùng của hành vi đạo đức của cá nhân là làm điều lợi cho xã hội theo nguyên tắc "hạnh phúc lớn nhất cho số đông người nhất". Minlơ đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng của Bentam. Song, khác với Bentam, Minlơ đã phân biệt sự khác nhau về chất giữa các loại khoái cảm. Ông cho rằng, những khoái cảm tinh thần và đạo đức cao hơn những khoái cảm vật chất. Cũng có sự khác nhau giữa hạnh phúc và sự mãn nguyện "thà làm một Xôcrát không thỏa mãn còn hơn một tên ngu đần mãn nguyện". Mintơ cũng phân biệt những trình độ cao thấp của hạnh phúc, chẳng hạn, thưởng thức nhạc kịch (opera) là hạnh phúc ở trình độ cao hơn so với việc chơi những trò chơi trẻ con đơn giản, mặc dù chúng có thể làm cho nhiều người vui thích hơn là đi xem biểu diễn nhạc kịch. Cũng theo Minlơ, những người ít học thức thường chạy theo những khoái cảm đơn giản, tầm thường, chỉ có những trí thức mới hiểu biết được giá trị của những khoái cảm tinh thần ở trình độ cao.

Thuyết vị lợi của Minlơ đã được nhiều nhà triết học chấp nhận và tán dương, vì nó khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa khoái lạc vị kỷ, tầm thường, nâng chủ nghĩa khoái lạc lên một trình độ khác khi đề cao giá trị tinh thần, chủ nghĩa vị tha, gắn khoái cảm của cá nhân với việc đem lại hạnh phúc cho xã hội: cá nhân càng làm điều lợi cho xã hội thì càng cảm thấy hạnh phúc nhiều hơn.
Kế thừa những yếu tố hợp lý trong lịch sử triết học, triết học Mác - Lênin đã đưa ra một cách tiếp cận duy vật và biện chứng về vấn đề hạnh phúc.

Trước hết, triết học Mác phản đối những quan điểm hạnh phúc mang tính chất ảo tưởng, cực đoan. Trong Lời nói đầu góp phần phê phán triết học pháp quyền của vĩ Hêgen, C.Mác coi mục đích của sự phê phán tôn giáo là "xóa bỏ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là yêu cầu thực hiện hạnh phúc thục sự của nhân dân", là "vứt bỏ khỏi những xiềng xích các bông hoa giả... và giơ tay hái lấy bông hoa thật".

Theo quan điểm duy vật lịch sử, "tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống". Như vậy, hạnh phúc của con người trước hết phải là hạnh phúc của những cá nhân con người đang sống. Mọi quan niệm, tiêu chuẩn về hạnh phúc do xã hội đặt ra, nếu không phù hợp với nhu cầu hạnh phúc của cá nhân, thì mãi mãi chỉ là những lý tưởng thuần túy.

Hạnh phúc cá nhân không thể tách rời hạnh phúc của cộng đồng, bởi "chỉ có trong đời sống cộng đồng cá nhân mới có được những phương tiện để có thể phát triển toàn diện những năng khiếu của mình và do đó, chỉ có trong cộng đồng mới có thể có tự do cá nhân". Chính vì vậy, chủ nghĩa cộng sản đặt ra cho mình mục đích là phát triển tự do, toàn diện và hạnh phúc trọn vẹn của cá nhân, nhưng không phải là của một số cá nhân giàu có, mà của tất cả mọi cá nhân, nghĩa là của toàn. thể cộng đồng. Biện chứng giữa cá nhân và xã hội còn cho ta thấy cái cá nhân và cái xã hội quy định, chế ước lẫn nhau. Cá nhân chỉ thật sự có hạnh phúc khi được sống trong một cộng đồng mà mọi người đều có hạnh phúc, khi được mọi người thương yêu, tôn trọng và chính mình cũng góp phần đem lại hạnh phúc cho những người khác.

Chính C.Mác, trong lúc còn rất trẻ, đã tiếp cận được chân lý đó khi nói rằng, nếu ta chọn một nghề mà phục vụ được nhiều cho xã hội thì nỗi khó nhọc, vất vả trong công việc sẽ vì thế mà vơi đi. Anbe Anhxtanh (Albert Einstein), nhà khoa học vĩ đại của thế kỷ XX, cũng khẳng định mục đích cuộc sống của mỗi chúng ta là vì người khác, "trước hết vì những người mà hạnh phúc của riêng ta phụ thuộc hoàn toàn vào nụ cười và sự yên ấm của họ, kế đến là vì bao người không quen mà số phận của họ nối với ta bằng sợi dây của lòng cảm thông". Điều này giải thích tại sao những nhà họat động chính trị lấy việc phấn đấu cho lợi ích của dân tộc, nhân loại làm niềm hạnh phúc của mình, những nhà khoa học hy sinh cả cuộc đời vì sự nghiệp khoa học phục vụ nhân loại, những người dân bình thường khác trong xã hội không ngần ngại trích một phần thu nhập của mình để làm công việc từ thiện.

Thứ hai, con người là một chủ thể họat động. Do đó, sự nhàn hạ, vô vi, yên tĩnh... không thể đem lại hạnh phúc cho con người. Chúng chỉ có ý nghĩa là những khoái cảm mà con người tìm thấy sau một thời gian lao động mệt nhọc, phấn đấu căng thẳng mà thôi. Anhxtanh đã tìm thấy hạnh phúc của mình ở "thiên đường khoa học". Ông phê phán lối sống nhàn hạ, vô vi. Ông nói: "Tôi không bao giờ tìm kiếm sự nhàn hạ và sự sung sướng như là mục đích tự thân" và "Không có tình cảm đồng loại, không có công việc bận rộn với thế giới khách quan với những nỗ lực không bao giờ đạt được hoàn toàn trong lĩnh vực nghệ thuật và khoa học thì cuộc sống đối với tôi sẽ hình như vô nghĩa".

Theo quan điểm mácxít, vấn đề hạnh phúc phải được xem xét từ phương diện toàn diện và lịch sử cụ thể. Một người tuy giàu có về vật chất, đầy đủ, nhàn hạ, thoải mái trong cuộc sống cá nhân, nhưng nghèo nàn trong đời sống tinh thần, hạn hẹp trong quan hệ và họat động xã hội thì không thể cảm thấy hạnh phúc hơn những người tuy vất vả, thiếu thốn trong cuộc sống vật chất nhưng có cuộc sống tinh thần và xã hội phong phú hơn. Trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, yêu cầu hạnh phúc của con người cũng khác nhau.

Trong thời kỳ đấu tranh cách mạng “hạnh phúc là đấu tranh" theo nghĩa là đấu tranh giải phóng giai cấp, dân tộc, chống chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa đế quốc. Hoàn cảnh này đòi hỏi cá nhân phải đặt lợi ích xã hội lên trên hết. Khi đất nước ta bị Pháp, Mỹ đô hộ, tuy lối sống cá nhân, thực dụng phương Tây đã có ảnh hưởng đến một bộ phận không nhỏ trong nhân dân ta, nhưng điều đó không ngăn cản tuyệt đại đa số người Việt Nam yêu nước phát huy truyền thống quý báu của dân tộc và tiếp thu những tư tưởng tiên tiến của chủ nghĩa Mác-Lênin. Khi đặt hạnh phúc cá nhân trong hạnh phúc của xã hội, họ đã nhận thức rõ rằng, trong điều kiện nước mất, nhà tan thì cá nhân phải hy sinh hạnh phúc của mình vì sự sống còn và tương lai của dân tộc. Hồ Chí Minh và biết bao chiến sĩ cách mạng khác đã thực hành lối sống đó và đã để lại những tấm gương chói lọi cho muôn đời sau. Hồ Chí Minh luôn coi độc lập của dân tộc, tự do và hạnh phúc của nhân dân là "mục đích duy nhất", là "ham muốn tột bậc" của mình. Nguyễn Văn Trỗi tuyên bố trước kẻ thù: còn giặc Mỹ thì không ai có thể có hạnh phúc.

Trong giai đoạn hiện nay, hạnh phúc cá nhân và xã hội phải gắn liền với nhau, kết hợp hài hòa với nhau. "Đấu tranh" ở đây phải được hiểu là đấu tranh cải tạo tự nhiên, chống đói nghèo, làm cho xã hội ngày càng văn minh. Mọi họat động chân chính của cá nhân, như sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu khoa học, họat động nghệ thuật, họat động chính trị - xã hội… vừa đem lại cuộc sống và hạnh phúc cho cá nhân nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện cho cá nhân đóng góp xây dựng đất nước, đem lại hạnh phúc cho xã hội. Còn những người chỉ biết đến lợi ích của riêng mình, móc túi người khác để bỏ cho đầy túi mình luôn bị xã hội coi khinh, pháp luật trừng trị, như vậy, trước sau cũng không thể nào sống yên bình, hạnh phúc được. Thứ ba, hạnh phúc cá nhân không chỉ thể hiện ở việc thỏa mãn nhu cầu, đạt được mục đích, mà là quá trình con người không ngừng phấn đấu, từ chỗ đặt ra mục đích, vạch kế họach, tìm kiếm phương tiện, đến việc phấn đấu thực hiện và đạt được những mục đích đó. Khi con người thỏa mãn được một nhu cầu, đạt được một mục đích nào đó thì cảm thấy hạnh phúc, tuy nhiên, nếu dừng lại ở đó, khoái cảm hạnh phúc cũng sẽ dần mất đi. Hơn nữa, con người cảm thấy hạnh phúc ngay trong quá trình thực hiện chứ không phải đợi đến khi đã đạt được mục đích đó. Điều bất hạnh lớn nhất đối với con người là thiếu mục đích, thiếu lý tưởng, không có gì để phấn đấu trong cuộc sống. Trong giai đoạn hiện nay, kinh tế thị trường với những cám dỗ vật chất của nó đã ảnh hưởng rất lớn đến lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, thanh niên và một số tầng lớp khác trong xã hội ta. Người ta đã đồng nhất hạnh phúc với việc có nhiều tiền, thỏa mãn đầy đủ những nhu cầu vật chất từ ăn, mặc, ở, đi lại đến nhu cầu tính dục. Đáng buồn hơn cả là có một bố phận không nhỏ học sinh, sinh viên, thanh niên của chúng ta chạy theo lối sống gấp, cốt thỏa mãn những khoái cảm trước mắt. Các em bỏ bê việc học tập để suốt ngày rong chơi, một số thì đắm mình trong các trò chơi điện tử hoặc thậm chí la cà ở các vũ trường, một số khác thì tham gia vào các nhóm trộm cướp, trấn lột và làm những việc phạm pháp khác. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng ngày giảm sút chất lượng học tập ở các trường phổ thông, đại học trong cả nước. Nguyên nhân, một mặt, là tâm lý chán nản của một số học sinh, sinh viên trước những khó khăn, vất vả của công việc học hành và, mặt khác, là sự thiếu bản lĩnh kìm chế, làm chủ bản thân trước những cám dỗ vật chất tầm thường. Những điều này lại có nguyên nhân sâu xa hơn, là sự suy giảm ý thức về lý tưởng, về mục đích sống, khiến các em không có được những định hướng đúng đắn cho chính cuộc đời mình.

Do đó, những vấn đề, như thế nào là hạnh phúc? Tại sao phải sông có đạo đức? cần được trả lời một cách thuyết phục. Tất nhiên, theo quan điểm duy vật, hạnh phúc của cá nhân không thể đứng ngoài những khoái cảm do việc thỏa mãn những nhu cầu cuộc sống hàng ngày đem lại. Vấn đề là cần phải phân biệt những khoái cảm trước mắt với hạnh phúc lâu dài, những khoái cảm có tính chất ảo tưởng, ảo giác với hạnh phúc chân chính của con người. Những khoái cảm từ men rượu, thuốc lắc, ma túy, sex… chỉ đem lại sự chán chường, tuyệt vọng, đau khổ về sau. Việc làm giàu bằng con đường bất chính cũng không đem lại hạnh phúc thật sự. Khổng Tử đã từng nói: "Giàu và sang là điều ai cũng muốn. Nhưng để được giàu sang mà chẳng phải đạo, thì người quân tử không chọn lấy". Anhxtanh cũng khinh ghét lối sống chạy theo đồng tiền và nhu cầu vật chất tầm thường. Ông nói: "Tiền bạc chỉ kích thích sự ích kỷ và không tránh khỏi dẫn đến sự bất lương". "Ba điều trong số những cố gắng của con người: của cải, sự thành đạt bề ngoài, sự xa hoa đối với tôi luôn luôn là đáng khinh bỉ".

Đối với thế hệ trẻ, trách nhiệm của gia đình, trường học là phải coi trọng việc giáo dục đạo đức, lẽ sống cho họ. Việc làm này cần phải được thực hiện ngay từ cấp tiểu học cho đến bậc đại học. Cha mẹ, thầy cô giáo cần phải cho các em hiểu thế nào là cuộc sống hạnh phúc, dạy cho các em biết hy sinh những khoái cảm trước mắt để phấn đấu cho tương lai lâu dài của cá nhân, của đất nước, biết kết hợp hài hòa giữa cuộc sống cá nhân với cuộc sống tập thể và xã hội. Cần phải giáo dục cho các em hiểu rằng lý tưởng sống của tuổi trẻ là học tập rèn luyện để sau này lập thân, lập nghiệp, để đạt đến trình độ làm chủ và sáng tạo khoa học, công nghệ, vừa có được cuộc sống cá nhân hạnh phúc, vừa góp phần đưa Việt Nam thành một nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, có thể sánh vai với các cường quốc năm châu.
Theo Tạp chí Triết học - chungta.com

8.12.07

Khai thác các giá trị của truyền thống nho học phục vụ sự phát triển của đất nước trong điều kiện toàn cầu hóa

Nguyễn Trọng Chuẩn
Tạp chí Triết học



Lịch sử của toàn thể nhân loại nói chung, cũng như của từng nước nói riêng, mặc dù có những bước thăng trầm nhưng xét trên tổng thể, không ngừng phát triển và không ngừng vận động tiến lên phía trước, đặc biệt là trong thời đại chúng ta. Sự phát triển và vận động đó không tách rời với quá khứ và với việc kế thừa những di sản đã trở thành các giá trị truyền thống được lưu lại từ trong quá khứ. Điều này đã hơn một lần được chứng minh bằng sự phát triển của các nước Đông Bắc Á nói riêng và Châu Á nói chung, nơi đã sản sinh ra Nho học hoặc đã và đang chịu ảnh hưởng của Nho học ở các mức độ khác nhau.

Tuy nhiên, cho đến hiện nay, sự thần kỳ của các nền kinh tế Nhật Bản và của các nước NICs Châu Á, được giới nghiên cứu và các nhà chính trị giải thích theo nhiều cách khác nhau, nhất là về ảnh hưởng của Nho học đối với sự thần kỳ đó. Sự tồn tại đồng thời nhiều cách lý giải khác nhau về vai trò và ảnh hưởng của Nho học trong xã hội hiện đại cũng là điều dễ hiểu, bởi vì bản thân Nho học không những đã có lịch sử lâu đời là hiện tượng hết sức phức tạp, mà sự thâm nhập của nó vào đời sống của các xã hội phương Đông ở những thời kỳ lịch sử khác nhau cũng rất khác nhau, phụ thuộc vào bản sắc của văn hoá bản địa, vào thời điểm lịch sử cụ thể và vào trình độ phát triển các mặt của nơi mà nó thâm nhập. Chính vì lẽ đó mà việc đánh giá các giá trị của Nho họe phụ thuộc rất nhiều vào thái độ khách quan, vào chỗ đứng và vào vốn tri thức của mỗi con người đang tiến hành đánh giá. Mặc dù khó có thể tìm ra một sự đồng điệu hoàn toàn trong việc đánh giá các giá trị của Nho học đối với các xã hội hiện thời của châu á trong bối cảnh toàn cầu hoá, để từ đó khai thác chúng phục vụ cho sự phát triển, nhưng chúng ta có thể tìm ra những nét chung nhất định nào đó ở những người tiến hành công việc này bằng một thái độ khách quan và khoa học.

Riêng đối với Việt Nam, nếu không kể đến các đánh giá khác nhau trước năm 1945 về vai trò của Nho học, thì trong khoảng 50 năm qua sự đánh giá về giá trị của Nho học đối với xã hội Việt Nam đương đại có nhiều điểm trái ngược nhau. Một số người đánh giá rất cao vai trò của Nho học đối với xã hội và con người Việt Nam hiện nay, thậm chí có người còn coi Nho học tạo cơ sở quan trọng cho việc thâm nhập dễ dàng của chủ nghĩa Mác vào Việt Nam hoặc coi các truyền thống của Việt Nam đều bắt nguồn từ Nho học.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, tương tự như phong trào phê phán, mạt xát, hạ bệ Nho học đã diễn ra ở Trung Quốc những năm 50 - 60, ở Việt Nam cũng có không ít người coi nho học chỉ là một thứ ung nhọt, họ phủ nhận hoàn toàn mọi giá trị của Nho học, thậm chí coi Nho học không có vai trò gì trong văn hoá truyền thống Việt Nam và không những không có tác dụng thúc đẩy sự phát triển xã hội, mà trái lại, còn cản trở sự phát triển đó. Liên tiếp trong các năm 1994 và 1995 Tạp chí Thông tin Lý luận đã có các bài của các ông bà Trần Khuê, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Mai Trung Hậu trình bày và bảo vệ các quan điểm này.

Chẳng hạn, ông Mai Trung Hậu khẳng định rằng, "Nho giáo về cơ bản mâu thuẫn với văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam". Mặc dù tác giả đã dùng chữ về cơ bản để làm mềm bớt quan điểm của mình nhưng trong toàn bài viết của tác giả đã toát lên một sự đối lập khá rõ.

Chúng ta đều biết rằng, trong lịch sử lâu dài của mình, dân tộc Việt Nam đã phải chiến đấu hết sức kiên cường với các thế lực phong kiến Trung Hoa, với đế quốc xâm lược Pháp, với chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ để giành lại và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và nền độc lập của dân tộc. Tuy nhiên, khi nhìn lại các thời kỳ văn hoá Việt Nam hội nhập hoặc giao lưu với văn hoá Nam Á, với văn hoá Trung Hoa, với văn hoá Pháp, văn hoá Nga và ngay cả với văn hoá Mỹ chúng ta sẽ thấy được nhiều điều. Trong các lần hội nhập và giao lưu đó, văn hoá Việt Nam, một mặt, vẫn giữ được bản sắc của mình, nhưng, mặt khác, đã có biết bao nhiêu sự tiếp thu, cải biến và làm phong phú thêm cho bản thân mình.

Chính tính chất cởi mở, sự mềm dẻo, khả năng thích nghi nhanh đã góp phần tạo nên sức sống và sức đề kháng của nền văn hoá Việt Nam. Thực tế lịch sử đó là không thể bác bỏ, do vậy, mọi kết luận thái quá dù theo bất kỳ hướng nào, về giá trị của Nho học đối với vắn hoá Việt Nam đều thiếu cơ sở. Phải khách quan mà thừa nhận rằng, văn hoá truyền thống Việt Nam đã chịu ảnh hưởng nhất định và đã tiếp thu không ít giá trị của Nho học, cải biến các giá trị đó cho phù hợp với bản sắc riêng của mình.

Việc nghiên cứu bản chất và các quy luật phát triển của văn hoá thế giới cho thấy rằng không có một nền văn hoá nào chỉ gồm toàn những gì là của riêng dân tộc mình. Cho nên, lẽ nào một dân tộc nhiều lần phải đương đầu với các thế lực muốn tìm mọi cách đồng hoá mình như dân tộc Việt Nam mà nền văn hoá lại chỉ hoàn toàn do nguồn gốc nội sinh, chỉ toàn là những cái của riêng mình, chứ không hề tiếp thu những gì là quý giá có nguồn gốc từ bên ngoài?

Tương tự như vậy, nếu nói rằng, "văn

hoá Khổng giáo chỉ có sự kìm hãm chứ không có sự thúc đẩy sự phát triển xã hội” liệu có vội vàng quá không? Ai cũng có thể thấy được những mặt tiêu cực của Nho học, nhất là Tống Nho, vì những sự khắt khe của nó đối với con người, trước hết là người phụ nữ, do vậy, chẳng một ai có thể phủ nhận tác hại kìm hãm của những quan điểm Nho học mang tính cực đoan đối với con người và xã hội Việt Nam trong quá khứ và vẫn còn rơi rớt lại trong hiện tại ở một phạm vi hẹp. Tuy nhiên, chúng Lôi cho rằng, không phải "văn hoá Khổng giáo chỉ có sự kìm hãm sự phát triển xã hội. Cần hết sức khách quan và phải có quan điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét, đánh giá từng vấn đề của học thuyết này và hơn nữa phải tính đến cả các ảnh hưởng cũng còn khá sáu rộng khác của Nho học đối với gia đình và xã hội chúng ta hôm nay.

Thử hỏi, có một học thuyết triết học nào, dù là rất tiến bộ, từ thời cổ đại cho đến ngày nay vẫn còn giữ nguyên được toàn bộ và một cách tuyệt đối các giá trị của nó mà không chịu sự phán xét của lịch sử, không chịu sự thẩm định của thời gian hoặc không chịu một sự phủ định nào đó? Giải thích ra sao về sự tồn tại lâu dài của Nho học và về việc cho đến nay nó vẫn được không ít người chấp nhận một cách tự nguyện nếu như nó là học thuyết chỉ đóng vai trò kìm hãm hoặc là hoàn toàn chống lại sự tiến bộ xã hội?

Từ những điều trình bày trên đây, và nhất là từ thực tế hiện thời, cần khẳng định rằng, sẽ không thể phủ định siêu hình đối với Nho học. Trái lại, cũng như với bất cứ học thuyết triết học nào khác, chúng ta phải đối xử với Nho họe một cách khoa học. Khai thác các giá trị của Nho học, nhất là Nho học đã được Việt hoá qua các thời đại cũng như của các học thuyết khác của nhân loại, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hóa nước nhà trong bối cảnh nhân loại đang bước vào nền kinh tế tri thức và toàn cầu hoá ngày hôm nay là nhiệm vụ tuy không dễ dàng, đòi hỏi thời gian và công sức của nhiều người, nhưng có thể làm được và nhất thiết phải làm.

Chúng tôi muốn đề cập đến một vài điểm cụ thể sau đây.

Trước hết, là thái độ đối với việc học và việc dạy. Ôông tổ của Nho học dã từng nói một câu nổi tiếng là "học không biết chán, dạy không biết mỏi". Khổng Tử không coi việc học chỉ dành riêng cho một ai đó, ông cũng không cho rằng có sự giác ngộ là hoàn toàn do tự phát, hoặc là chỉ do trực giác. Trái lại, theo ông, tất cả sự hiểu biết đều là do học. Mọi người sinh ra đều như nhau, người ta hơn nhau chỉ là ở cái chí, có chí thì ắt việc gì cũng thành công. Bởi vậy, việc lập chí là hết sức quan trọng. Khi đã lập được chí rồi, tức là đã xác định được phương hướng cho cuộc đời rồi, thì phải ra sức học và thực thi những cái đã học được.

Ngay từ khi 15 tuổi Khổng Tử đã để hết chí vào việc học (xem Luận ngữ - Vi chính 4) và thực tế là ông đã học suốt đời, tự tìm thầy mà học, tự tìm sách mà đọc. Với ông, ai cũng có thể là thầy của mình, trong ba người cùng đi với mình thì cũng đã có thầy của mình rồi. Ông rất tự hào về việc học đó, chứ không phải tự hào về đạo đức của mình. Tuy nhiên, chính cái chí học đó lại là để thực hiện đạo làm người, để trở thành người có đạo đức, thành nhân, thành người có trách nhiệm với người thân, gia đình, xã hội. Khổng Tử khuyên người ta không nên lo là mình sẽ không có địa vị gì, không nên lo người đời không biết đến mình, mà chỉ nên lo là mình có năng lực gì để gánh vác được việc đời, với xã hội mà xem liệu mình có tài đức gì để được đặt vào địa vị ấy. Thiết tưởng lời khuyên ấy vẫn có giá trị trong thời đại chúng ta. Một người lãnh đạo chân chính thì ắt hẳn không thể thiếu mục đích chân chính, không thể thiếu sự hiểu biết thực sự, một học vấn cao, một sự tu thân, sửa mình kiên trì. Một người lãnh đạo và quản lý chân chính không thể chỉ có cái danh, không thể dùng cái bằng giả để khoe khoang và giữ ghế như tình trạng khá nhức nhối đang diễn ra. Nói cách khác, nhà chính trị, nhà quản lý thì phải lấy học vấn làm cơ sở, làm nền tảng, song không thể thiếu được cái đức, bởi vì nếu "thượng bất chính thì hạ tắc loạn". Khổng Tử thật sáng suốt biết bao!

Lời khuyên của Khổng tử cũng rất hữu ích đối với việc đào tạo con người phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời đại mà thế giới đang từng bước chuyển đần sang nền kinh tế tri thức. Điều này càng đặc biệt quan trọng đối với các nước đang ở trong tình trạng kém phát triển nếu như nước đó không muốn trở nên lạc hậu hơn và nếu không muốn khoảng cách với các nước phát triển tăng thêm lên nữa. Dĩ nhiên, chúng ta tiếp thu ở Nho học cái tinh thần học, cái chí học và phần nào cái ý nghĩa của việc học, còn cái phương pháp học và nội dung họe thì chắc chắn phải thay đổi. Thời đại đòi hỏi phải thay đổi và không thể không thay đổi cả nội dung lẫn phương pháp học. Chắc chắn là cái sự siêng năng, cần cù, miệt mài, chăm chỉ của cha ông ta và của cả thế hệ hôm nay để có được một học vấn cao cũng có sự kế thừa cả những tinh hoa của việc học của Nho học.

Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta cũng có thể khai thác mặt tích cực của Nho học từ các góc độ khác nữa, chẳng hạn, từ quan điểm coi dân là gốc của nước. Cha ông ta đã hiểu rất rõ tầm quan trọng của quan điểm này. Mở đầu cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng coi bài học đầu tiên là bài học lấy dân làm gốc. Trong kháng chiến đã vậy, trong xây dựng đất nước ngày nay cũng như vậy, mất dân là mất tất cả, mất lòng tin của dân thì chẳng cũng chẳng làm được gì. Đó là bài học quan trọng đã được lịch sử cả quá khứ và hiện đại của dân tộc ta đúc kết.
Theo Tạp chí Triết học - chungta.com

2.12.07

Tư liệu về triết gia Trần Đức Thảo (số 3)

Trần Đức Thảo và cuốn Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức


Nếu hỏi một bạn đọc Trần Đức Thảo là ai, hẳn anh ta lập tức nói là một trong những nhà triết học của Việt Nam và (với đôi chút ngần ngừ) của cả thế giới nữa. Nếu hỏi tiếp ông ta đã viết những gì, và nhất là viết như thế nào, anh ta sẽ rất lúng túng, nhưng lại có thể kể ra được một loạt giai - huyền thoại xung quanh tác phẩm của ông. Có tình trạng đó là vì, một phần đa số tác phẩm của Trần Đức Thảo viết bằng tiếng Pháp, phần khác độc giả ta thường vẫn tự bằng lòng với những hiểu biết đại khái của mình. Trình độ học thuật hiện nay không còn cho phép bạn đọc, nhất là các nhà nghiên cứu, làm việc với những hiểu biết truyền khẩu mà còn phải đọc tư liệu gốc. Hơn nữa, trong việc kiểm kê di sản để tìm hiểu vốn văn hoá dân tộc hôm nay, nhất là di sản triết học, tôi nghĩ không thể bỏ qua những trang viết của Trần Đức Thảo được. Một di sản muốn có tác dụng phải phục sinh nó vào đời sống đương đại. Bởi vậy, tôi cho rằng việc dịch cuốn Recherches sur l’origine du langage et de la conscience (Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức), tác phẩm quan trọng nhất của ông, là một việc làm rất có ý nghĩa.

Trần Đức Thảo sinh ngày 26-09-1917 tại xã Song Tháp, huyện Từ Sơn, tỉnh Hà Bắc, trong một gia đình viên chức nhỏ. Năm 1935, sau khi đỗ tú tài vào loại xuất sắc, ông theo học trường Luật tại Hà Nội. Năm 1936, ông sang Pháp học để chuẩn bị thi vào Ecole Normale Supérieure de la Rue d’Ulm (Trường Đại học Sư phạm phố d’Ulm). Đây là một trong những trường nổi tiếng của Pháp, chỉ tuyển dụng những người xuất sắc nhất của đất nước. Có thể nói, đó là một thứ “siêu đại học”. Bởi vậy nhiều học giả, nhà nghiên cứu, sau khi tốt nghiệp trường này, đã có học vị tiến sĩ, nhưng khi viết sách vẫn không quên chua thêm vào là “cựu sinh viên” của trường Đại học Sư phạm. Năm 1939, Trần Đức Thảo thi vào trường đỗ cao, và đến năm 1943 tốt nghiệp thủ khoa, nhận được học vị thạc sĩ với luận án La méthode phénoménologique chez Husserl (Phương pháp hiện tượng luận ở Husserl) Bấy giờ một số tờ báo ở Pháp và ở Đông Dương coi đây là một sự kiện đặc biệt, biểu hiện của một tài năng thiên phú. Sau đó, Trần Đức Thảo đăng kí làm luận án tiến sĩ về hiện tượng luận Husserl.

Nhưng chiến tranh thế giới II tràn vào Pháp và Cách mạng tháng Tám thành công ở Việt Nam. Trần Đức Thảo tích cực tham gia vào những hoạt động yêu nước ở Pháp và hướng lòng về Việt Nam. Bấy giờ, hiện tượng luận, trong việc xử lý mối quan hệ giữa hiện tượng và bản thể, đã chia thành hai nhánh. Một chú trọng hơn đến hiện tượng, cái nghiệm sinh, coi hiện tượng là có trước và tạo ra bản chất. Hai coi bản chất là cái có trước, và hiện tượng chỉ là sự hiện thực hoá nó. Nhánh trước dẫn đến chủ nghĩa hiện sinh. Nhánh sau dẫn đến chủ nghĩa Marx. Nhiều trí thức Pháp với tinh thần cá nhân đi theo con đường thứ nhất. Trần Đức Thảo, với tư cách là người Việt Nam, không thể tách cá nhân mình ra khỏi vận mệnh dân tộc, đã chọn con đường thứ hai: chuyển từ hiện tượng luận sang chủ nghĩa duy vật biện chứng. Thế là xảy ra cuộc tranh luận nổi tiếng giữa nhà triết học Việt Nam với nhà văn, triết gia hiện sinh Pháp J. P. Sartre. Và tháng 8 năm1961, Trần Đức Thảo cho in cuốn Phénoménologie et matérialisme dialectique (Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng) ở nhà in Minh Tân tại Paris - Sau đó ông trở về tổ quốc theo đường dây Paris-London-Praha-Moskva-Bắc Kinh-Tân Trào, bỏ lại sau lưng cuộc sống sung sướng ở Paris và một tương lai học thuật rạng rỡ.

Ở chiến khu Việt Bắc, Trần Đức Thảo trở thành khách mời của Bộ giáo dục, đi điều tra nhiều cơ sở trường học và chuẩn bị xây dựng nền giáo dục mới. Ông là Ủy viên Ban Văn Sử Địa, tiền thân của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia hiện nay. Sau hoà bình, ông là Phó giám đốc trường Đại học Sư phạm Văn khoa, rồi chủ nhiệm khoa Sử, giáo sư Lịch sử triết học, của đại học Tổng hợp Hà Nội. Từ năm 1958, sau vụ “Nhân văn-Giai phẩm”, ông chuyên nghiên cứu những tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lê và trở thành chuyên viên của NXB Sự thật, nay là NXB Chính trị Quốc gia.

Tuy ở Việt Nam trong hoàn cảnh thông tin thiếu, Trần Đức Thảo vẫn tiếp tục đọc sách báo, trao đổi học thuật với các học giả Pháp. Đặc biệt, ông vẫn tiếp tục nghiền ngẫm cái điều mà ông đã tự đặt ra cho mình được viết trong Lời mở đầu của cuốn Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng năm 1951: tìm trong chủ nghĩa Marx “cách xử lý khả thủ duy nhất những vấn đề do hiện tượng luận đặt ra”. Những tìm kiếm của ông được đăng dần trên tạp chí La Pensée (Tư tưởng) từ năm 1966 đến 1970, và năm 1973 được Editions Sociales (Xuất bản xã hội) in dưới tiêu đề Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức. Sau khi sách ra đời đã được dịch ra nhiều thứ tiếng ở châu Âu, và được in ở Mỹ năm 1981.

Sau đại hội VI, Trần Đức Thảo cho ra đời cuốn Vấn đề con người và chủ nghĩa “lý luận không có con người” (NXB TP Hồ Chí Minh, 1988). Năm 1992, Trần Đức Thảo được sang Pháp chữa bệnh và lấy thêm tư liệu để viết công trình La logicque du présent vivant (Logic của cái hiện tại sống động). Nhưng tiếc thay, cuốn sách chưa hoàn thành thì ông ngã bệnh và qua đời ở Paris ngày 19-04-1993. Di hài Trần Đức Thảo được đưa về Hà Nội và chôn ở nghĩa trang Văn Điển. Có thể nói, cái chết của Trần Đức Thảo đã thức dậy ở độc giả Việt Nam ham muốn tìm hiểu tác phẩm của ông. Việc xuất bản các bài giảng của ông dưới tiêu đề Lịch sử tư tưởng trước Mác (NXB Khoa học Xã hội, 1995) là một bằng chứng. Việc có người dầy công nghiền ngẫm và dịch cuốn Tìm hiểu cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức là một bằng chứng khác.

Con người sở dĩ thành người chính là ở chỗ nó có ý thức. Ví dụ nổi tiếng của Marx về sự khác nhau giữa một con ong khéo léo nhất với một kiến trúc sư tồi nhất đã nói lên điều đó. Nhưng ý thức bắt nguồn từ đâu và có từ bao giờ; đó là niềm băn khoăn lớn của nhân loại và cũng là câu hỏi mà Trần Đức Thảo muốn trả lời bằng cuốn Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức. Có hai con đường để nghiên cứu hồi cố sự phát sinh của ý thức: 1. Nghiên cứu qua cử chỉ và ngôn ngữ ở trẻ nhỏ. 2. Qua những tư liệu về người tiền sử. Hai phương pháp này bổ trợ cho nhau rất tốt, và cũng tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà lấy một trong hai cái làm chủ đạo. Có thể làm được như vậy là vì sự phát sinh tộc loại luôn luôn lặp lại trong sự phát sinh cá thể. Chính định đề này là sợi chỉ vừa xuyên suốt vừa bện kết ba nghiên cứu như riêng Trần Đức Thảo thành một cuốn sách hoàn chỉnh.

Nghiên cứu thứ nhất có tiêu đề Hành động chỉ dẫn như là hình thức gốc của ý thức khảo về dấu hiệu đầu tiên nhờ đó mà con người vượt qua con khỉ. Đó là việc người nguyên thuỷ đi săn thì bao giờ cũng nhằm vào con yếu nhất trong bầy thú và chỉ cho người khác. Đầu tiên chỉ người khác rồi mới chỉ đến con thú, cử chỉ vòng cung. Cứ như thế, đoàn người ra dấu cho nhau. Nhưng người chạy sau cùng thì không còn người khác nữa nên chỉ vào mình và chỉ vào con vật. Dần dần, từ chỉ vòng cung đến chỉ thẳng đến con vật kèm theo tiếng nói… Như vậy, ý thức đầu tiên là ý thức về đối tượng và bản thân, và sự phân tích của Trần Đức Thảo soi sáng cho câu của Marx: “Ý thức là một sản phẩm xã hội nhất thời”. Cuối cùng, ông đi đến kết luận: Ngôn ngữ là ý thức thực (Marx) bởi vậy thời điểm gốc của ý thức là ngôn ngữ cử chỉ và lời nói mà chủ thể hướng vào chính nó sau khi đã hướng vào người khác.

Ngôn ngữ hỗn hợp là nghiên cứu thứ hai của cuốn sách, tìm hiểu sự sinh thành của ý thức qua những biểu thị ngôn ngữ gắn với sự phát triển của công cụ người. Con khỉ chỉ biết dùng cơ quan tự nhiên của nó để sử dụng một dụng cụ, còn con người thì dần dà biết dùng dụng cụ để chế tác ra công cụ, như việc dùng một hòn đá để ghè một hòn đá khác thành rìu. Muốn đẽo được thành rìu thì ít nhất trong óc nó phải có hình ảnh của một đối tượng vắng mặt và một ngôn ngữ biểu thị cái đối tượng vắng mặt đó. Dựa theo những dữ kiện mà các giai đoạn sản xuất tiền sử cung cấp, cũng như ở tâm lý học trẻ em, Trần Đức Thảo đã phân tích rất tỉ mỉ sự hình thành ý thức ở homo faber (người chế tác).

Nghiên cứu thứ ba về Những nguồn gốc của khủng hoảng Ơđíp. Xuất phát từ sơ đồ của Freud, nhưng Trần Đức Thảo không cho rằng Ơđíp là một nguyên bản có nguồn gốc từ quan hệ của trẻ em với cha mẹ và cần thiết cho sự phát triển cái tôi của nó, mà là một dư sinh của những giai đoạn nhất định trong sự phát sinh loài. Thực ra, trong Vật tổ và cấm kị, Freud cũng đã cho ơđíp có một nguồn gốc lịch sử, nhưng Trần Đức Thảo phê phán ông là không đúng khi đồng nhất xã hội người với bầy động vật. Nhà triết học giải thích mặc cảm Ơđíp bằng bi kịch sinh học của người đàn bà. Thời đá cũ sơ kì sản phụ tử vong rất nhiều vì xương chậu chưa kịp phát triển thích hợp khi con người đứng thẳng. Do nạn khan hiếm phụ nữ nên lớp thanh niên phải nhịn sinh lý đối với những người phụ nữ cùng lớp tuổi của mình cho đến năm ba mươi tuổi để lấy lớp con cái họ mới mười bốn mười lăm tuổi. Bởi vậy ham muốn tình dục của một cậu con trai không phải với chính mẹ đẻ của mfinh, mà với mẹ vợ mà giờ đều gọi tên chung là “mẹ”. Như vậy, ham muốn này chỉ là loạn luân từ góc độ ngữ nghĩa học. Cũng từ luận điểm cơ bản này, tác giả giải thích mặc cảm Ơđíp ở bé gái và những mặc cảm khác như mặc cảm thiến hoạn… tất cả đều bằng lao động xã hội.

Tóm lại, cả ba nghiên cứu đều khẳng định nguồn gốc của ý thức do ngôn ngữ và lao động xã hội, khước từ một bản chất người phi lịch sử, khước từ một Ơđíp kiểu Freud. Người ta thấy, qua tác phẩm này, Trần Đức Thảo lại làm một bước chuyển nữa: từ chủ nghĩa duy vật biện chứng đến chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Như vậy, hành trình triết học của Trần Đức Thảo đi từ hiện tượng luận của Husserl đến chủ nghĩa duy vật biện chứng, rồi lại từ chủ nghĩa duy vật biện chứng đến chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đấy cũng là con đường của một số trí thức lớn của Pháp, nhưng về sau họ đều “xét lại” tín điều của mình như E. Morin, R. Aron… Duy Trần Đức Thảo vẫn trung thành với nó đến hơi thở cuối cùng. Ông là một nhà triết học trung kiên của chủ nghĩa Mác-Lê. Sau khi cuốn Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức của ông ra đời, vì có sử dụng sơ đồ của Freud, nên ông rất ngại bị hiểu lầm là thuộc phái những người chủ trương kết hợp Marx với Freud, một xu hướng triết học - tâm phân học lớn ở Tây phương với những tên tuổi như E. Fromm (La Peur de la liberté, 1941, L’Art d’aimer, 1954), H. Marcuse (Eros et civilisation, 1995, l’Homme unidimentionel, 1964)… Ông đã viết báo cáo để khẳng định lại vấn đề này. Cuốn Vấn đề con người và chủ nghĩa “lý luận không có con người” được viết ra để phản bác lại L. Althusser, nhà triết học Pháp muốn kết hợp Marx với cấu trúc luận. Trần Đức Thảo muốn bảo vệ sự thuần nhất của triết học Mác-Lê.

Tuy không phải là một triết gia (người sáng lập những triết thuyết, mà chỉ là một nhà triết học (người nghiên cứu, giảng dạy triết học) nhưng Trần Đức Thảo là một người suốt đời bận tâm triết học. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù khó khăn về vật chất hoặc tinh thần, không làm ông thôi suy tư về nó. Điều đáng quý hơn nữa là ông luôn có ý thức không để mình lạc hậu so với trình độ tri thức chung của thế giới. Vì thế, người ta thấy ông lúc nào cũng đọc, đọc rất nhiều từ dân tộc học, nhân học tiền sử, đến tâm lý học trẻ em, tâm phân học… Nhưng có ý thức là một chuyện, còn kịp thế giới lại là một chuyện khác, bởi phụ thuộc vào phẩm cách cá nhân một phần, phần khác vào môi trường thông tin. Bởi vậy, ngày nay đọc sách của Trần Đức Thảo, bạn đọc có thể thấy đây đó một số tư tưởng đã cũ, một số những kết luận đã bị tư liệu mới vượt qua, hoặc những lập luận tuy nhất quán nhưng còn đơn tuyến cứng nhắc… Đó cũng là điều dễ hiểu, hẳn vì không ai có thể toàn bích, không ai chống lại được thời gian. Nhưng đóng góp lâu dài của Trần Đức Thảo cho học thuật Việt Nam là một tư duy triết học thuần khiết. Điều này trước hết thể hiện ở một năng lực tư biện cao (điều hiếm ở Việt Nam) sau đó là khả năng biết đặt và giải quyết những vấn đề cơ bản của khoa học, phương pháp nghiên cứu liên ngành… Hình như tất cả những ưu điểm trên đều hội tụ trong Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức.

Đỗ Lai Thúy

(Lời mở đầu cho tác phẩm Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức, bản in của Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội 1996)

30.10.07

Tư liệu về triết gia Trần Đức Thảo (số 2)



Triết gia lữ hành Trần Đức Thảo

GS. Trần Văn Giàu cho rằng, ở Việt Nam bản thân mình và các đồng nghiệp khác cũng chỉ là những người nghiên cứu và giảng dạy triết học, người duy nhất được coi là nhà triết học, chỉ có Trần Đức Thảo mà thôi.

Năm 1987, khi tôi còn đang lúi húi với luận án phó tiến sĩ ở Đại học Tổng hợp Charles - Praha, một hôm có một sinh viên ta mới sang nhập học hớt hải chạy vào phòng tôi, hỏi: “Anh có biết Việt Nam mình có ông Trân nào làm Triết học không? Trong nước em học Toán, sang đây lại được phân công học Triết, chẳng có chút vốn liếng nào cả. Ông Trân là ai?” Tôi lắc đầu xin chịu.

Mấy ngày sau chàng trai lại đến với mẩu giấy nhỏ trong tay, nói rõ: “GS. Vôratrếch, thầy dạy môn Lịch sử triết học bảo em: Mày sang chúng tao học triết làm gì? Sao không ở nhà học ông Tran. Tại Mỹ, tại Italia, tại Nga, tại Pháp, Tây Ban Nha, Nhật Bản... đều có có sách dịch của ông ấy cả. Cần đọc tiếng nước nào, tao cho mượn. Họ tên đầy đủ của ông ấy là thế này đây”.

Thì ra vậy. Người Việt Nam nổi tiếng một cách âm thầm đó chính là GS. Trần Đức Thảo. Tôi bảo chàng sinh viên: “Đây là một trí thức quá say nghề nên bị tai nạn nghề nghiệp ấy mà. Làm triết, làm sử, làm văn, làm...ở mình một thời tội lắm. Như chơi với dao hai lưỡi. Làm khoa học xã hội là cần có gan chịu đòn. Cậu cần chuẩn bị tinh thần trước đi. Có một dạo, cái tên cụ Thảo ở trong nước nhiều người yếu bóng vía mỗi lần nhắc đến là cứ phải hạ giọng thì thào. Càng thì thào, sợ nhau, cụ ấy càng khổ. Nhưng bây giờ đất mình mọi người theo Đảng đang đổi mới, chắc chẳng phải thì thào nữa. Ta biết tự tin và tự hào về nhau rồi”.

Chàng sinh viên nghe tôi nói xong, bậm môi hạ quyết tâm: “Em sẽ tranh thủ học thêm tiếng Pháp buổi tối để đọc được cụ Trần”.

Mẩu giấy ghi tên người Việt Nam nọ đã đem đến cho tôi nguồn động viên không nhỏ. Sự bế tắc và trì trệ trong nền kinh tế nước ta sau chiến tranh đã khiến nhiều cán bộ khoa học và công nhân Việt Nam coi việc đi nước ngoài khi đó như một lối thoát, một phương sách hữu hiệu, duy nhất cải thiện đời sống cho gia đình. Tôi cũng nằm trong số đó. Nhưng khi bắt đầu yên vị ăn học, lao động trên đất bạn rồi, những người Việt Nam có chút lòng tự trọng không khỏi ngậm ngùi, mặc cảm. Sống trên đất khách quê người, đi đâu cũng nghe người ta ca ngợi Việt Nam đánh Mỹ giỏi. Nhưng nghe ca ngợi nhiều ta cũng sinh nghi. Biết đâu sau lời ca ấy là nụ cười thầm. Phải chăng thế giới cho rằng dân tộc mình không biết làm gì giỏi hơn cầm súng?… Vậy thì hãy nhìn đây! (ấm ức quá, lần đó tôi đã cầm mẩu giấy kêu lên một mình như vậy)… hãy nhìn cái tên người Việt Nam này, người ngay từ Chiến tranh thế giới thứ II đã từng cả cười tranh luận với nhà triết học lừng danh J.P. Xactơrơ (Jean Paul Sartre, 1905-1980). “Kẻ thù buộc chúng ta cầm súng”. Người Việt Nam chúng ta phải chịu thiệt thòi do những biến thiên đỏng đảnh của lịch sử mà thôi. Còn nếu được sống yên hàn, chúng ta vẫn dư sức để làm Triết học.
Vì là người làm công việc nghiên cứu và giảng dạy văn chương, sau khi về nước tôi không theo dõi sát những đóng góp của GS. Trần Đức Thảo thời kỳ đổi mới. Tôi chỉ loáng thoáng nghe rằng câu chuyện lâm nạn của ông thời được gọi là “chống nhân văn - giai phẩm” cũng đã được dẹp sang bên. Bản thân ông cũng không coi đó làm trọng. Chuyện cũ cứ cho thành chuyện cổ đi. Niềm say mê nghề nghiệp cùng bản tính trung thực - cái tố chất tự nhiên của một nhà khoa học chân chính, đã cuốn ông về phía trước. Thành ủy Hà Nội và Thành ủy TP. HCM cùng nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho ông yên tâm theo đuổi những công trình triết học lâu nay dang dở. Ông đã đi nhiều nước dự hội nghị quốc tế, trao đổi học thuật và năm 1992 sang Pháp nghiên cứu, kết hợp chữa bệnh.

Thế rồi một ngày nọ, vào cuối tháng tư năm 1993 tôi nghe tin ông mất. Lo toan sinh kế, tôi cũng không bỏ thời gian tìm hiểu những phút cuối cùng của ông. Nghe tin buồn đó, tôi chỉ biết thở dài, chợt nhớ tới câu thơ của Thu Bồn viết về Hồ Chủ tịch năm nào: “…thế là dừng một cánh chim đại bàng”. Gần đây, khi nhận công việc Tổng biên tập tại Nhà xuất bản ĐHQGHN, phải trực tiếp “xử lý” bản thảo hai công trình triết học mới được tổ chức dịch ra tiếng Việt của ông, tôi mới có dịp tìm và hiểu nhiều hơn về thân thế, cuộc đời ông. Để cuốn sách “Sự hình thành con người” của ông ra mắt dày dặn hơn, hấp dẫn độc giả hơn, tôi quyết định kiểm tra và cho in thêm phần phụ trương - Tiểu sử tự thuật Trần Đức Thảo. Vì có một số câu dịch không thoát ý, đáng nghi, tôi tìm gặp người vợ cũ của Giáo sư, bà Nguyễn Thị Nhất. Thật không ngờ, đọc xong bản dịch, bà nổi giận. Bà đã từng học Đại học Sorbone, là Việt kiều từ Pháp về nước tham gia kháng chiến và là một nhà tâm lý học. Từ thời chiến tranh tôi đã tập trấn tĩnh, kiềm chế phản xạ, không giật mình khi nghe tiếng nổ, vậy mà lần này tôi đã giật mình hoảng hốt trước cơn giận dữ của người đàn bà 80 tuổi. Vì sao? Vì đó là cơn giận dữ của học thuật, là sự thịnh nộ của người phụ nữ Bình Định sau 40 năm chia tay vẫn trân trọng, ấp ủ tình yêu đầu với nhà triết học Bắc Hà. Bà quát: “Bậy! Dịch bậy! Ông ấy không sang lánh nạn ở Bỉ, mà là bà Hut-sơ (Husserl). Dịch thế tai hại lắm, nhất là khi đó người Pháp nghi ông ấy làm gián điệp cho Đức”. Tôi cố tìm cách trấn tĩnh bà. Tôi biết mình không phải là người chịu lỗi, mà ngược lại, đang có cơ hội khám phá những bí ẩn về một người đàn ông Việt Nam hiếm hoi. Còn ai hơn bà - nhân chứng tin cậy duy nhất còn lại và gần như giữ bản quyền về sự thật cuộc sống Giáo sư Thảo? Sự nhẫn nại và cố gắng thuyết phục của tôi đã được bù đắp. Bà nguôi giận. Bằng giọng Nam Bộ pha âm Bắc và âm Pháp ngữ, bà thong thả kể cho chúng tôi nghe chuyện một thời tuổi trẻ bên người chồng kính yêu đầu tiên của mình. Theo lời bà, những trang tiểu sử mà tôi được đọc tự nhiên cứ sáng lên, sống động như tôi đang xem một cuốn phim quay chậm.

GS. Trần Đức Thảo sinh ngày 26/9/1917, tại huyện Từ Sơn, Bắc Ninh. Chưa học hết năm thứ nhất trường ĐH Luật Hà Nội, năm 1936 ông đã được nhận học bổng sang Paris để thi vào trường Cao đẳng Sư phạm phố Ulm - cái nôi của các danh nhân và các nhà khoa học nổi tiếng châu Âu khi đó. Trong những năm Chiến tranh thế giới thứ II, vượt qua mọi gian nan, thiếu thốn, ông vẫn xuất sắc giành tấm bằng cử nhân triết học, rồi thạc sĩ triết học với đề tài về hiện tượng học của Hut-sơ. Năm 1943 đến 1944 ông tiếp tục theo đuổi các ý đồ khoa học của mình và viết luận án tiến sĩ. Trong quá trình nghiên cứu ông đã đến với hiện tượng học tinh thần của Hêghen và tiếp cận với lập trường triết học mácxít. Nhưng bầu không khí cách mạng nóng hổi trong nước đã kéo ông khỏi những suy tư trừu tượng để trở về với mảnh đất thực tại. Ông sớm trở thành Uỷ viên của Tổng liên đoàn người Việt tại Pháp, chuyên trách các vấn đề chính trị. Ông thực sự là người phát ngôn cho khát vọng độc lập và tự do dân tộc của 25.000 kiều dân Việt Nam trên đất Pháp.Trong một cuộc họp báo, trước câu hỏi của một phóng viên: “Những người Đông Dương sẽ làm gì khi quân đội viễn chinh đổ bộ?”, ông đã thản nhiên trả lời: “Phải nổ súng”. Mấy ngày sau, mẩu đối thoại ngắn ngủi này xuất hiện trên tờ Le Monde. ông lập tức bị bắt rồi bị giam cầm trong nhà tù Prison de la Senté, với tội danh “xâm phạm an ninh nước Pháp”. Trong thời gian ông bị giam, nhiều tờ báo tiến bộ đã lên tiếng đòi trả tự do cho ông. Tổng biên tập tạp chí Les Temps Modernes đã viết một bản kiến nghị gửi tới tay mấy nghìn trí thức Pháp, tạo sức ép dư luận để bảo vệ tính mạng cho nhà triết học trẻ tuổi này. Tuy nhiên ba tháng trong tù không hoàn toàn là quãng thời gian bất hạnh. Mất tự do thể xác nhưng ông lại tìm được tự do cho tư duy: ông viết được mấy bài báo và một công trình nổi tiếng sau này của ông đã hình thành, đó là công trình “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng”.

Trước đó không lâu, ông đã làm không khí học thuật Pháp và châu Âu trở nên sôi động bởi cuộc tranh luận năm ngày với nhà triết học hiện sinh lừng danh J. P. Xactơrơ Sau năm ngày tranh luận, Xactơrơ đã “rút lại các thắc mắc”, đồng ý với những quan điểm bảo vệ triết học Mác của Trần Đức Thảo và yêu cầu không công bố các bản tốc ký tường thuật quá trình tranh luận. Trần Đức Thảo đã kết thúc cuộc tranh luận trong tư thế của người thắng cuộc. Ngay sau đó, trong thời gian ông bị giam trong tù, môn đồ của Xactơrơ đã tuyên truyền xuyên tạc, khiến dư luận hiểu rằng Trần Đức Thảo đã phá hỏng cuộc tranh luận. Ông đệ đơn kiện, buộc các môn đồ của Xactơrơ phải từ bỏ ý đồ lừa lọc. Vụ kiện của ông có thể gây phiền hà lớn cho Xactơrơ trong những năm tiếp theo, nhưng nghe theo lời khuyên của chính phủ kháng chiến Việt Nam, ông bỏ kiện. Về phương diện học thuật, quan điểm của họ có thể trái ngược nhau. Trong thực tiễn chính trị, Xactơrơ là người phản đối chính sách thực dân ở Việt Nam, cống hiến tích cực cho phong trào hòa bình. Sau này ông đã lớn tiếng lên án Mỹ trong pháp đình của Bectơrăng Ruxen. Năm 1964 ông còn từ chối giải Nobel Văn học. Suy cho cùng, hai ông đã có tiếng nói chung.

Ngay từ năm 1946, trong một chuyến Hồ Chủ tịch sang thăm Cộng hòa Pháp, nhà triết học trẻ tuổi đã xin gặp Người, bày tỏ nguyện vọng được về xây dựng đất nước. Nhưng mãi tới năm 1951, nguyện vọng của ông mới được đáp ứng. Ông từ bỏ các giảng đường, các thính phòng triết học đang hứa hẹn cả một sự nghiệp danh giá, dùng tiền nhuận bút cuốn sách “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng” để mua vé máy bay, bí mật về nước theo một lộ trình khá vòng vèo: từ Paris sang Luân Đôn - Praha - Matxcơva - Bắc Kinh, về nước, lên Việt Bắc - thủ đô kháng chiến. Tại đó, ông nhận nhiệm vụ nghiên cứu giáo dục, dịch các tài liệu cho đồng chí Trường Chinh trong Văn phòng Tổng Bí thư, tham gia cải cách ruộng đất.

Hòa bình, ông trở thành giáo sư Triết học và là Phó Giám đốc Đại học Sư phạm Văn khoa, Chủ nhiệm Khoa Lịch sử - Đại học Tổng hợp Hà Nội. Triết học của ông không còn nặng tính tư biện, mà “hạ cánh”, gắn liền với những vấn đề then chốt của thực tiễn cách mạng. Các bài báo nổi tiếng của ông như “Khuyến khích tinh thần tự do dân chủ”, “Nội dung xã hội và những hình thức của tự do” cùng một số bài khác, công bố trong hai năm 1955-1956, thực chất chỉ là những suy nghĩ tìm tòi rất tự nhiên, chân thành của một học giả quen viết bằng tiếng Pháp và quen khái quát, trừu tượng hóa những vấn đề vốn rất rối rắm trong thực tế. Bối cảnh chính trị phức tạp thời kỳ “chiến tranh lạnh”, sự ấu trĩ và lối nghĩ cơ hội của một số kẻ xấu bụng đã vô tình đẩy ông ra khỏi giảng đường. Nhưng, đúng với tư chất của một hiền nhân Đông phương, ông vẫn ung dung, tự tại, chấp nhận hình thức “cải tạo tư tưởng” một thời gian rồi lại say sưa với công việc mới - công việc biên dịch tại NXB Sự thật. Ông tiếp tục nghiên cứu, dịch và hiệu đính lại các tác phẩm kinh điển của Mác, Ănghen, viết bài, in sách ở nước ngoài và cộng tác thường xuyên với một số tạp chí Pháp. Năm 1973, NXB Xã hội của Pháp xuất bản cho ông công trình “Khảo về nguồn gốc của ngôn ngữ và ý thức”. Cuốn sách lập tức được dịch và xuất bản ở nhiều nước, kể cả ở Mỹ. Năm 1988 ông cho xuất bản cuốn “Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có con người”. Nói như GS. Phan Ngọc, “Trần Đức Thảo đến với chủ nghĩa duy vật sau khi trèo lên cái đỉnh cao nhất của chủ nghĩa duy tâm thời đại này là hiện tượng luận của Hut-sơ, rồi lật ngược nó lại. Từ duy tâm sang duy vật chính là sự phát triển biện chứng của chủ nghĩa duy tâm, ông chuyển sang chủ nghĩa Mác do tình cảm yêu nước”. Tên ông trở thành một mục từ quan trọng trong một số từ điển triết học ở châu Âu. Cuối những năm năm mươi, do quan hệ gia đình căng thẳng và điều kiện sống quá khó khăn, vợ chồng ông phải chia tay nhau. Ông trở thành người đàn ông độc thân, nổi tiếng thêm bởi sự đãng trí, hồn nhiên và sự thiếu thốn, cơ hàn trong sinh hoạt. Dãy nhà B khu tập thể Kim Liên vốn đã nổi tiếng vì là “xóm giáo sư”, nay lại nổi tiếng hơn vì có thêm GS. Trần Đức Thảo trụ trì. Trong dịp tang lễ Giáo sư, nhà văn Phùng Quán chứng kiến một chuyện thật bi - hài. Nhà văn kể:

“Dễ có đến hai năm tôi không đến khu tập thể Kim Liên. Lần này trở lại tôi ngạc nhiên thấy cái quán của bà cụ móm dưới gốc cây xà cừ mà mười năm trước tôi thường ghé hút thuốc, uống nước, vẫn còn nguyên chỗ đó. Tôi vào quán uống chén rượu thay bữa ăn sáng. Bà cụ đang rôm rả nói chuyện với mấy anh xích lô:

- Con cháu nhà tôi nó mới sắm cái tivi màu nội địa. Tối hôm kia, bắt dây rợ xong, bật lên thấy đang chiếu cảnh tang lễ một ông tên là gì gì Thảo đó. Người ta giới thiệu ông Thảo là nhà triết học nổi tiếng thế giới, làm đến sáu bảy chức, chức nào cũng dài dài là, chắc là toàn chức to. Ông ta sang tận bên Tây mà chết. Cả Tây cả Ta đều làm lễ truy điệu, toàn cán bộ to đến dự… Trong khu nhà B6 đàng kia cũng có một ông tên Thảo, nhưng lôi thôi lếch thếch quá mấy anh công nhân móc cống. Mùa rét thì áo bông sù sụ, mùa nực thì bà ba nâu bạc phếch, quần ống cao ống thấp, chân dép cao su đứt quai, đầu mũ lá sùm sụp, cưỡi cái xe đạp “pôdô con vịt” mà mấy bà đồng nát cũng chê. Thật đúng như anh hề làm xiếc. Mặt cứ vác lên trời, đạp xe thỉnh thoảng lại tủm tỉm cười một mình, như anh dở người… Một buổi trưa trời nắng chang chang, ông ghé vào quán tôi uống cốc chè xanh, tôi hỏi: “Ông đi đâu về mà nom vất vả thế?”. Ông nói: “Tôi lên chợ Hàng Bè mua củi đun”. Tôi hỏi: Thế củi đâu cả rồi? Ông quay lại nhìn cái poocbaga, mặt cứ ngẩn tò te. Chỉ còn sợi dây buộc. Củi nả rơi đâu hết dọc đường, chẳng còn lấy một que… Nghĩ cũng tội, già ngần nấy tuổi đầu mà phải nấu lấy ăn, không vợ, không con… Đấy, cũng Thảo cả đấy, mà Thảo một đằng thì chết danh chết giá, còn Thảo này thì sống cơ cực trần ai…

Bà cụ chép miệng thương cảm:
- Một vài năm nay không thấy ông ấy đạp xe qua đây, dễ chết rồi cũng nên…
Tôi uống cạn chén nước, cười góp chuyện:
- Cái ông Thảo mà bà kể đó chính là cái ông Thảo người ta chiếu đám ma trên ti vi.
Bà cụ bĩu môi:
- Ông đừng tưởng tôi già cả mà nói lỡm tôi!”
Nếu bà cụ quán nước tin lời nhà văn Phùng Quán, hẳn cụ sẽ thương cảm hơn cái ông Thảo láng giềng sống thế nào, chết thế nào ở bên Tây.

Vốn là người chỉ coi kết quả của những suy tư triết học là niềm vui duy nhất trong cuộc sống, ông gần như mất cảm giác trước các nhu cầu vật chất. Tại Paris những năm tháng cuối đời, ông lảng tránh mọi sự giúp đỡ của bạn bè, đồng nghiệp, đồng hương. Ông sống và viết trong một căn phòng nhỏ tầng năm, do Sứ quán Việt Nam bố trí. Vốn bị bệnh gan mãn tính, ăn uống đạm bạc, thất thường, cộng với mùa đông băng giá, sức khỏe ông như ngọn đèn leo lét dần. Ông trút hơi thở cuối cùng khi bản thảo công trình “Logic của cái hiện tại sống động” (La logique du présent vivant) còn ngổn ngang, dang dở. Lọ tro di hài ông được Đại sứ quán ta cử người đưa về nước cùng va li chứa tư trang, bản thảo, tài liệu. Vì không còn người ruột thịt lo đỡ, lọ tro phải gửi “trọ”, trả tiền 5 nghìn đồng một ngày, trong gầm cầu thang Nhà tang lễ Phùng Hưng. Ông phải “nghỉ ngơi” ở đó chờ các thủ tục quyết định về tiêu chuẩn “nằm Mai Dịch” hay “nằm Văn Điển”.

Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học. Trường ĐHKHXH&NV đã nhận số tiền thưởng đó từ người thân của ông, cộng với số tiền quyên góp để lập Quỹ học bổng Triết học Trần Đức Thảo. Nhờ công dịch thuật của dịch giả Đinh Chân và bà Nguyễn Thị Nhất, năm 2004, hai công trình “Hiện tượng học và CNDVBC” và “Sự hình thành con người” từ Nhà xuất bản ĐHQGHN đã ra mắt độc giả tiếng Việt. Nhằm vào một ngày rằm, chúng tôi mời cựu phu nhân của Giáo sư ra viếng mộ và kính trình hai cuốn sách.

Hôm đó là một ngày nắng hè oi ả. Tôi cùng mấy biên tập viên đặt hương hoa và hai cuốn sách còn thơm mùi mực in lên mộ rồi đọc một bài văn tế ngắn. Tôi cố tình không thắp nhiều hương vì nghĩa trang khu A - Văn Điển hôm ấy sực mùi bê tông bị mặt trời hun nóng. Vậy thì khói lửa mà làm gì, nhất là khi dưới ấy là lọ tro. Ngày hỏa táng, ông đã chịu nóng lắm rồi. Có thể dành hương lửa ấy cho ông vào mùa đông, được chăng!

Tôi đọc văn tế nhưng không có ý nghĩ hỗn xược là lời mình có thể vọng tới hương hồn người dưới mộ. Thật ra là tôi đọc cho những người đang đứng bên tôi nghe, và cho chính bản thân mình. Còn ông, ông mất ở phía trời Tây. Xa xăm lắm! GS. Trần Văn Giàu cho rằng, ở Việt Nam bản thân mình và các đồng nghiệp khác cũng chỉ là những người nghiên cứu và giảng dạy triết học, người duy nhất được coi là nhà triết học, chỉ có Trần Đức Thảo mà thôi. Nhà văn Nguyễn Đình Thi thì gọi ông là “người lữ hành vất vả”. Quả vậy, ông sống rất lận đận như một khách lữ hành. Sống cũng rất xa mà chết cũng rất xa. Điều đáng nói nhất, theo tôi, ông là nhà triết học mácxít kiên trinh và chân chất nhất. Từ khi rời Pháp về nước lên Việt Bắc, ông đã sống và làm việc bằng khối óc và trái tim của một người cộng sản không thẻ đảng. Có điều, ông là người hay đi trước và đi xa trong tư tưởng. Đi gần thì yên hàn, còn một mình đi xa thì dễ lạc. Nhưng, dường như các danh nhân đều mỗi người một phận. Trời sinh ra ông để mà đi xa, để mà làm khách lữ hành, những người mà thiếu họ, tương lai của một cộng đồng thường được dự báo và định liệu rất muộn.

Phạm Thành Hưng [Bản tin ĐHQGHN số 169, 3/2005]

Tư liệu về triết gia Trần Đức Thảo (số 1)

Tác phẩm cuối đời của Giáo sư Trần Đức Thảo,
“Logic của cái hiện tại sống động”.
Giáo sư tặng tác phẩm này cho cố thi sĩ Cù Huy Cận,
sau đó nhà thơ đã tặng lại cho TS. Cù Huy Chử.




Người giữ gìn di sản triết học Trần Đức Thảo


Sinh ra ở vùng đất Kinh Bắc, tốt nghiệp tú tài trường Bưởi, thành danh tại Paris, sống và làm việc chủ yếu tại Hà Nội, nhưng hiện nay gần như toàn bộ bản thảo và di cảo của Cố Giáo sư Trần Đức Thảo lại được lưu giữ trong một biệt thự yên tĩnh nằm trên đường Bác Ái, Làng Đại học, quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh, mà chủ nhân của nó là Tiến sĩ Triết học - Mĩ học Cù Huy Chử, em trai của Cố Thi sĩ Cù Huy Cận - một nhà nghiên cứu nặng lòng với sự nghiệp phục hưng Di sản triết học Trần Đức Thảo.

TS. Cù Huy Chử đã tâm sự với chúng tôi về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng của Cố Giáo sư Trần Đức Thảo và những dự định của ông trong việc phục hưng Di sản triết học quý báu này, trong một chiều Sài Gòn đầy nắng cuối năm Bính Tuất.

Thưa ông, xin ông giới thiệu đôi nét về bản thân và công việc hiện tại của ông?

Tôi vốn là một giáo viên văn học và về sau nghiên cứu, giảng dạy triết học, mĩ học, lý luận văn hóa và văn hóa học. Tôi đã tham gia giảng dạy ở nhiều loại trường học và thuyên chuyển nhiều cơ quan. Những năm 1960, tôi công tác tại Văn phòng Phủ Thủ tướng, làm Thư ký khoa học của Tiểu ban lý luận Văn hóa-Giáo dục Trung ương do Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trực tiếp phụ trách, đồng chí Trần Việt Phương là người lãnh đạo tôi lúc đó. Tiểu ban lý luận Văn hóa-Giáo dục Trung ương có những nhà lý luận văn hóa-giáo dục vốn rất khâm phục và trân trọng Giáo sư Trần Đức Thảo, như: GS Nguyễn Khánh Toàn, GS Đặng Thai Mai, GS Hà Huy Giáp, GS Vũ Khiêu, nhà văn Nguyễn Đình Thi, các đồng chí Hà Xuân Trường, Trần Quang Huy… Những năm 1970 và đầu 1980 tôi công tác tại Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng. Cuối cùng tôi công tác tại Phân viện TP. Hồ Chí Minh của Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (nay là Học viện Chính trị khu vực II), là Trưởng khoa Văn hóa XHCN, nay là Khoa Lý luận Văn hóa-Phát triển. Năm 2005 tôi nghỉ hưu nhưng vẫn tham gia giảng dạy tại một số trường đại học, nghiên cứu khoa học và viết báo, viết sách.

Giá trị nổi bật của tác phẩm triết học Trần Đức Thảo, theo nhận định của riêng ông, là những gì?

Theo tôi, Trần Đức Thảo là nhà triết học Việt Nam duy nhất được công nhận có tầm vóc quốc tế, đã để lại một khối lượng tác phẩm lớn hết sức có giá trị. Trần Đức Thảo đã từ Hiện tượng học Husserl đến Chủ nghĩa duy vật biện chứng. Ông đã có những đóng góp đặc sắc về những vấn đề như bản chất của vật chất, vấn đề chuyển hóa năng lượng thần kinh thành năng lượng tâm thần, nói rộng hơn là vấn đề nguồn gốc của ý thức và các hoạt động tâm trí. Trần Đức Thảo đã lý giải sâu sắc về mặt khoa học sự chuyển hóa giữa vật chất và ý thức. Ông là người đã sáng tạo ra lý thuyết về khâu trung gian trong mọi sự chuyển hóa. Từ đó, Trần Đức Thảo đã có những cống hiến to lớn trong triết học về con người, về nguồn gốc con người, về lịch sử loài người, về tiến hóa và tiến bộ văn hóa. Trong hoạt động sáng tạo của mình, Trần Đức Thảo đã đề xuất nhiều khái niệm, nhiều phán đoán triết học có giá trị đặc biệt, nhất là trong lĩnh vực ý thức và ngôn ngữ, ví dụ như hành vi chỉ trỏ ở trẻ em, hay khái niệm gen ký ức xã hội của loài người.

Cũng cần nói thêm rằng, do đi sâu vào thời kỳ nguyên sơ nhất của lịch sử nhân loại, Trần Đức Thảo đã khẳng định nền tảng của xu hướng, định hướng phát triển của xã hội, của mỗi cá nhân, đó là những giá trị chân lý, đạo lý, thẩm mĩ, tức là những giá trị nhân văn. Theo ông, đó cũng là những vấn đề mà các nhà khoa học lớn và chân chính đã sáng tạo, khám phá và phát triển. Đó cũng là nội dung tư tưởng sâu rộng của Các Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh.

Trần Đức Thảo khẳng định: một xã hội, cũng như mỗi cá nhân, để phát triển trong hiện tại và tương lai, tất yếu phải thấm nhuần, đúng hơn là phải sống được những giá trị đã được tích lũy trong lịch sử giống loài. Điều này có nghĩa là: con người có lịch sử chung-cụ thể, luôn luôn phát triển trong biện chứng của lịch sử, và cũng luôn luôn hiện hữu và đồng hành với mỗi cộng đồng và mỗi cá nhân. Do vậy, muốn phát triển dân tộc và phát triển nhân cách cá nhân thì phải tuân theo quy luật ấy. Tức là, nếu anh khiếm khuyết những giá trị của lịch sử giống loài, thì sự phát triển của anh sẽ bị méo mó hoặc bản thân anh sẽ dị ứng với những giá trị ấy. Chính sự méo mó và dị ứng này sẽ biến thái thành chủ nghĩa cực đoan, đặc biệt là trong các hoạt động chính trị và tôn giáo. Bản thân Trần Đức Thảo suốt cuộc đời mình đã đấu tranh quyết liệt và không mệt mỏi với chủ nghĩa cực đoan ấy. Đối chiếu với lịch sử dân tộc ta và với lịch sử thế giới, đặc biệt là những diễn biến trong suốt thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI này, có thể kết luận rằng: triết học Trần Đức Thảo là triết học về sự sống, về con người, về lịch sử loài người đầy tính dự báo. Đó là cơ sở triết học cho mọi sự đổi mới, sáng tạo, hoàn thiện. Tôi rất tâm đắc với sự đánh giá của Daniel J. Herman: “Hy vọng chân thật rằng Trần Đức Thảo, nhà Mác-xít và nhà hiện tượng học đặc sắc, cuối cùng sẽ tìm được chỗ đứng xứng đáng trong lịch sử tổng quát của ý nghĩa.” (Bách khoa thư về Hiện tượng học, Kluwer Academic Publishers, 1997, tr. 707).

Xin ông cho biết đôi nét về mối giao tình của ông đối với Giáo sư Trần Đức Thảo, và những năm tháng cuối đời của Giáo sư tại TP. Hồ Chí Minh?

Tôi biết GS Trần Đức Thảo và có mối quan hệ với Giáo sư từ những năm 1960, đặc biệt mật thiết hơn từ năm 1967 trở về sau; và cho đến lúc Giáo sư sang Pháp thì tôi chỉ còn liên hệ bằng thư từ. Ở Hà Nội, tôi giúp Giáo sư những việc như: đánh máy bản thảo, lưu giữ bản thảo, chuyển gửi bài viết của Giáo sư cho những người có mối liên hệ với Giáo sư, chủ yếu là triết học. Tôi cũng tìm một số tư liệu, soạn thư mục theo sự chỉ dẫn của Giáo sư. Tôi rất hứng thú làm công việc ấy, vì đây là dịp may hiếm có được tiếp xúc với một thiên tài.

GS Trần Đức Thảo vào TP. Hồ Chí Minh cuối những năm 1980, lúc đầu ở Khách sạn Bến Nghé, về sau được UBND TP. Hồ Chí Minh cấp nhà tại số 200 phố Đề Thám, Quận 1. Đồng chí Trần Trọng Tân, trước là Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương, về sau là Phó Bí thư thường trực Thành ủy TP. Hồ Chí Minh, đã rất quan tâm đến đời sống và hoạt động sáng tạo của GS. Trần Đức Thảo, và tạo điều kiện để Giáo sư tham gia các hội thảo khoa học của TP. Hồ Chí Minh. Chính trong thời gian này, GS Trần Đức Thảo đã cho ra đời tác phẩm: “Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có con người”, do Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh xuất bản. Từ đó cho đến hiện nay, đồng chí Trần Trọng Tân luôn luôn khuyến khích, động viên tôi công bố Di sản Trần Đức Thảo, mà đồng chí biết là tôi đang giữ gìn khá đầy đủ và hệ thống. Thời gian này, Giáo sư Phạm Minh Hạc, Bộ trưởng Bộ Giáo dục- Đào tạo - một người cũng rất trân trọng GS Trần Đức Thảo, đã trực tiếp giải quyết một số khó khăn cho Giáo sư, trao đổi thư từ khoa học với Giáo sư, và công bố một số tác phẩm của Trần Đức Thảo trong Kỷ yếu khoa học cấp Nhà nước. Đồng chí Hà Xuân Trường là Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản đã cho công bố nhiều bài nghiên cứu khoa học của Giáo sư. Đồng chí Đào Duy Tùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương cũng đã nhiều lần làm việc với GS Trần Đức Thảo và chia sẻ với những khó khăn của Giáo sư.

Khi Giáo sư vào TP. Hồ Chí Minh, tôi đã thường xuyên đi lại để chăm sóc Giáo sư, vì đời sống của Giáo sư lúc này rất khó khăn, vì tuổi cao, vì bệnh gan và bệnh tiểu đường. Tôi vẫn làm việc cho Giáo sư như một người thư ký. Nhưng công việc ấy có phần vất vả hơn so với khi Giáo sư còn ở Hà Nội, do Giáo sư viết nhiều hơn, sửa chữa và bổ sung những tác phẩm đã viết, đã xuất bản nhiều hơn. Tôi thấy Giáo sư viết gấp gáp hơn lúc ở Hà Nội. Trước lúc Giáo sư đi Pháp, tôi đã cho con trai tôi là Luật sư Cù Huy Song Hà đến cùng ở với Giáo sư để giúp đỡ ông khi tuổi già sức yếu. Vợ tôi đã rất cảm thông với tôi và chia sẻ với Giáo sư.

Đời sống của GS Trần Đức Thảo có nhiều khó khăn về vật chất và tinh thần ngay từ khi ở Hà Nội, về cuối đời càng khó khăn. Có thể nói đó là một tấn bi kịch. Rất đáng khâm phục là trong hoạt động khoa học thì tâm trí của Trần Đức Thảo vẫn hết sức trong sáng. Có lẽ sự thủy chung với mục tiêu hoạt động sáng tạo triết học nhằm nhận biết từ các hiện tượng của sự sống mà loài người đã trải nghiệm, cho đến đến hiện tượng tinh thần phong phú của con người, những dự phóng của loài người, của dân tộc hướng tới tương lai, đã đem đến cho Trần Đức Thảo một tâm hồn sảng khoái.

Tác phẩm triết học của GS Trần Đức Thảo được biết đến và ngưỡng mộ chủ yếu ở nước ngoài. Đây vừa là một vinh dự cho dân tộc chúng ta, vừa là một thiệt thòi với đông đảo độc giả trong nước. Ông nghĩ gì về điều này?

Trần Đức Thảo sáng tạo triết học chủ yếu bằng hai ngôn ngữ chính là tiếng Pháp và tiếng Việt, ngoài ra cũng có cả tiếng Đức nữa, nhưng bằng tiếng Pháp là chủ yếu. Tuy vậy cần nói rõ là với những trí thức lớn của Việt Nam thì Trần Đức Thảo cũng được đánh giá rất cao và rất được hâm mộ chứ không phải chỉ có nước ngoài ngưỡng mộ ông. Những sáng tạo của GS Trần Đức Thảo bằng tiếng Pháp chưa được chuyển ngữ thành tiếng Việt, đó là một thiệt thòi và là điều đáng tiếc với độc giả trong nước, nhất là giới trí thức trẻ và sinh viên. Nhưng điều này sẽ được khắc phục trong thời gian tới. Đã đến lúc hội đủ những điều kiện để phục hưng di sản triết học Trần Đức Thảo, nhất là khi Việt Nam đã hội nhập quốc tế một cách toàn diện.

Để công bố và giới thiệu tác phẩm triết học Trần Đức Thảo với độc giả trong nước, chúng ta hiện gặp phải những thuận lợi gì và khó khăn gì?

Tôi cho rằng thuận lợi là chủ yếu vì bản thảo gốc của Trần Đức Thảo hiện còn giữ lại khá đầy đủ và hệ thống trong thư viện của tôi do GS Trần Đức Thảo trao lại trong quá trình tôi có mối quan hệ với Giáo sư từ những năm 1960 cho đến lúc cuối đời. Hơn nữa, những văn bản Giáo sư gửi tới một số địa chỉ, Giáo sư cũng giao cho tôi làm việc đó. Tôi biết chắc chắn rằng GS Trần Đức Thảo chỉ có một người thừa kế hợp pháp duy nhất là Bác sĩ Trần Đức Tùng, hiện ở tại TP. Hồ Chí Minh. Hai cụ thân sinh của GS Trần Đức Thảo có hai người con trai. Người con trai cả là liệt sĩ Trần Đức Tảo chỉ có một người con trai duy nhất là bác sĩ Trần Đức Tùng. Người con trai thứ hai là GS Trần Đức Thảo, trước đây đã đăng ký kết hôn với bà Nguyễn Thị Nhứt, nhưng đã ly hôn ngày 5 tháng 1 năm 1967, không có con. Bản chính quyết định ly hôn này GS Trần Đức Thảo trực tiếp giao cho tôi giữ, cùng với những di sản khác của Giáo sư mà hiện nay tôi đang gìn giữ rất cẩn thận. Từ đó đến ngày mất, GS Trần Đức Thảo sống độc thân. Bác sĩ Trần Đức Tùng đã ủy quyền cho tôi toàn quyền sử dụng và công bố tác phẩm của GS Trần Đức Thảo và gìn giữ di sản của Giáo sư.

Tôi nghĩ để xuất bản tác phẩm của GS Trần Đức Thảo, tất yếu phải tuân theo Luật Xuất bản đã được Nhà nước ban hành. Nếu có gì khó khăn thì trong điều kiện đất nước đổi mới hiện nay, tôi tin là sẽ được khắc phục. Chắc chắn như vậy.

Có lẽ ông sẽ có một số tâm sự với bạn đọc, đặc biệt là độc giả trẻ, sau một thời gian dài tiếp cận, suy ngẫm và nghiệm sinh về Di sản triết học Trần Đức Thảo?

Tôi nghĩ rằng thế hệ trẻ Việt Nam sẽ rất tự hào về Trần Đức Thảo, nhà triết học lỗi lạc của dân tộc và của thế giới. Trần Đức Thảo để lại tấm gương của một nhà khoa học chân chính: học tập suốt đời, cần mẫn sáng tạo suốt đời, vượt qua mọi khó khăn, đau khổ để sống trung thực và trong sáng. Tác phẩm Recherche sur L’Origine du Langage et de la Conscience (Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức) của Giáo sư Trần Đức Thảo đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh vào năm 2000. Có thể nói, triết học Trần Đức Thảo không chỉ của hiện tại mà còn là của tương lai, bởi các công trình của ông luôn luôn có căn cứ khoa học, nhất là khoa học sinh giới và khoa học vũ trụ. Trong điều kiện phát triển của đất nước và của dân tộc hiện nay, để có một tầm nhìn vừa sâu sắc, vừa vượt trước thời đại, tôi tin các thế hệ độc giả Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, sẽ đón nhận tác phẩm của Trần Đức Thảo như một báu vật. Trần Đức Thảo sống mãi trong trí tuệ Việt Nam.

Xin trân trọng cảm ơn ông. Kính chúc ông dồi dào sức khỏe để tiếp tục bảo tồn di sản văn hóa Trần Đức Thảo và công bố tác phẩm Triết học Trần Đức Thảo!


Nguyễn Trung Kiên (thực hiện)
(theo Báo Văn nghệ trẻ, Phụ trương của Tuần báo Văn nghệ -
Cơ quan ngôn luận của Hội nhà văn Việt Nam
số 9 (536), trang 18, ra ngày 4/3/2007)

16.9.07

Quan niệm của Hêgen về bản chất của triết học







GS, PTS Nguyễn Trọng Chuẩn-Tạp chí Triết học





Trong số các nhà triết học vĩ đại nhất, không thể không kể tới Gióocgiơ Vinhem Phriđrích Hêgen (1770-1831) - người đã cùng Lút vích Phoiơbăc và các nhà triết học Đức đương thời khác tạo ra một trong những tiền đề lý luận cần thiết cho việc hình thành chủ nghĩa Mác. Không chỉ là đại biểu tiêu biểu của nền triết học cổ điển Đức, Hêgen đã đem lại cho triết học địa vị vốn có và sứ mệnh cao cả của nó trong đời sống tinh thần nhân loại. Với những luận cứ sâu sắc và có cơ sở khoa học, Hêgen đã làm sáng tỏ đối tượng, chức năng và phương pháp của triết học, mối quan hệ của triết học với các khoa học khác và qua đó, trình bày một cách khúc chiết, đúng đắn bản chất của triết học.




Gần 2 thế kỷ đã trôi qua kể từ khi hệ thống triết học Hêgen ra đời, song ảnh hưởng của nó trong đời sống tinh thần nhân loại vẫn không ngừng tăng lên. Bởi lẽ, như Ph.Ăngghen đã khẳng định: "Hệ thống Hêgen bao trùm một lĩnh vực hết sức rộng hơn bất cứ hệ thống nào trước kia, và phát triển, trong lĩnh vực đó, một sự phong phú về tư tưởng mà ngày nay người ta vẫn còn ngạc nhiên... Vì Hêgen không những chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn là một nhà bác học có tri thức bách khoa nên những phát biểu của ông tạo thành thời đại... Nếu… đi sâu hơn nữa vào trong toà nhà đồ sộ, người ta sẽ thấy trong đó có vô số những vật qúy giá đến nay vẫn còn giữ được toàn bộ giá trị của chúng... Nói chung, với Hêgen, triết học đã đi đến điểm tận cùng, một mặt vì trong hệ thống của ông, ông đã tổng kết một cách hết sức hùng vĩ toàn bộ sự phát triển của triết học và mặt khác, vì Hêgen, dù không có ý thức, cũng đã chỉ cho chúng ta con đường thoát khỏi cái mớ bòng bong những hệ thống triết học để đi tới sự nhận thức thực sự tích cực về thế giới".




Trong suốt chiều dài lịch sử của mình, nhân loại đã lập nên biết bao chiến công hiển hách kể từ ngày Hêgen trở về cõi vĩnh hằng. song nó cũng đã phải hứng chịu biết bao tổn thất nặng nề. Một trong các nguyên nhân gây nên những tôn thất ấy là do chúng ta đã hành động mà thiếu một tư duy tỉnh táo và trước hết là thiếu một tư duy mang đậm sắc thái nhân văn - tư duy triết học, tư duy luôn đặt con người, số phận và khát vọng về tự do của nó lên hàng đầu. Điều đó cho thấy, nhân loại không thể sống thiếu triết học với bản chất nhân đạo vốn có của nó. Và hơn ai hết, chính Hêgen là nhà triết học đầu tiên không những đã ý thức được và nói rõ bản chất nhân đạo ấy của triết học, mà còn luận chứng cho nó một cách sâu sắc và khoa học. Với Hêgen, đấu tranh cho triết học là đấu tranh vì con người và ngược lại, phủ nhận hay khinh thường triết học là triệu chứng của một căn bệnh hiểm nghèo - bệnh thiếu tinh thần.




Trên cơ sở ý thức được một cách đầy đủ và sâu sắc địa vị quan trọng của triết học Hêgen trong lịch sử tư tưởng nhân loại và hơn nữa, từ nhận thức đúng đắn ý nghĩa hiện đại, vai trò lịch sử mới của di sản qúy giá ấy, các tác giả cuốn sách "Quan niệm của Hêgen về bản chất của triết học" đã tái tạo lại cách nhìn nhận, đánh giá của Hêgen về môn khoa học vĩ đại và thực sự nhân văn này. Với một hệ thống đồ sộ như triết học Hêgen, với một lập trường, một thế giới quan duy tâm biện chứng đạt đến điểm đỉnh nhu Hêgen và trong khuôn khô của một cuốn sách, thì việc hoàn thành nhiệm vụ nêu trên quả là hết sức khó khăn. Song, với một sự am hiểu, có thể nói là khá sâu sắc về triết học Hêgen và với một nỗ lực lớn trong cuốn sách này, các tác giả đã cố gắng thực hiện nhiệm vụ đó bằng một cách tiếp cận độc đáo là chỉ ra nguyên lý xuất phát của hệ thống triết học Hêgen và quá trình ông triển khai nguyên lý đó, nghĩa là làm sáng tỏ bản chất của triết học theo quan niệm của Hêgen.




Trong Chương I: "Hêgen với vấn đề đối tượng và phương pháp của triết học", bằng cách tiếp cận nêu trên, các tác giả đã cố gắng tái tạo quan niệm của Hêgen về triết học thông qua cách mà Hêgen xác định đối tượng của triết học, sự khác biệt giữa triết học và các khoa học khác, phương pháp của triết học từ xuất phát điểm hết sức độc đáo là nguyên lý về sức mạnh tuyệt đối của lý tính. Ở đây, các tác giả cuốn sách đã chỉ rõ, trong quan niệm của Hêgen, triết học có nhiệm vụ tìm kiếm bản nguyên đầu tiên của thế giới. Song, từ lập trường duy tâm khách quan và do sự tác động của các thành tựu văn minh trong thời đại mình, Hêgen đã coi lý tính là bản nguyên đầu tiên của thế giới và qua đó, ông đã thần thánh hoá lý tính, lấy nguyên lý về sức mạnh tuyệt đối của lý tính làm nguyên lý xuất phát cho hệ thống của mình. Các tác giả khẳng định, ở Hêgen, lý tính là vạn năng, có sức mạnh vô tận, tuyệt đối... chi phối tất cả các bình diện của một hệ thống triết học đồ sộ". Cũng như mọi hệ thống triết học khác, hệ thống triết học Hêgen được triển khai trên cơ sở luận chứng cho nguyên lý xuất phát đó từ nhiều phương diện khác nhau có liên quan mật thiết với nhau. Một đặc trưng nổi bật khác trong hệ thống triết học Hêgen, theo các tác giả, là ở chỗ, Hêgen đã giải quyết mọi vấn đề triết học trên nền tảng lịch sử tư tưởng triết học vô cùng phong phú, trước hết là tư tưởng triết học của các nhà triết học cổ điển Đức I.Cantơ, Phíchtơ, Senlinh. Hêgen "luôn quan niệm triết học của ông là sự kế tục và kết quả phát triển lịch sử của tu tưởng triết học. Và, trên thực tế, cái nuôi dưỡng triết học Hêgen không những là nền triết học Đức trực tiếp tồn tại trước nó... mà còn là toàn bộ lịch sử triết học".




Sau khi phân tích những luận chứng của Hêgen cho nguyên lý về sức mạnh tuyệt đối của lý tính từ sự phê phán quan niệm của I.Cantơ về tu duy (trong mục III - “Quan niệm của Hêgen về tư duy", các tác giả tiếp tục lý giải quan niệm của ông về sự khác nhau giữa triết học và nghệ thuật, tôn giáo. lịch sử triết học và các khoa học thực nghiệm. Cả trong vấn đề này, các tác giả cuốn sách cũng chỉ ra cho độc già thấy, ở Hêgen có những tư tưởng biện chứng sâu sắc, phản ánh chính xác hơn là phỏng đoán) một cách đúng đắn mối quan hệ giữa các lĩnh vực nhận thức này. Phần cuối của Chương này - "Một số nhận xét về phương pháp và đối tượng của triết học Hêgen", các tác giả đã đưa ra những nhận xét khái quát đối với những luận điểm của Hêgen về đối tượng và phương pháp của triết học. Với Hêgen, phương pháp triết học là phương pháp biện chứng, nó có nhiệm vụ luận chứng cho các cơ sở, tiền đề của triết học và qua đó, không những làm cho triết học thành một khoa học, mà còn phân biệt khoa học triết học với các khoa học khác. Đánh giá quan niệm của Hêgen về đối tượng của triết học, các tác giả viết: "Triết học chính là lĩnh vực hoạt động tinh thần nhằm khảo cứu cuộc sống , hoạt động của con người với tư cách một chỉnh thể xác định trong mối liên hệ với thế giới với tư cách một chỉnh thể. Đặc điểm này chứng tỏ rõ triết học là thế giới quan... Nó đặt ra các văn đề quan trọng nhất đối với con người... với tư cách một khoa học... Triết học không những phải dạy chúng ta cách thức xây dựng một khoa học mà cả cách thức xây dựng cuộc sống đích thực người... Triết học là sự chỉ đạo hành động, chỉ đạo cuộc sống".




Từ những đánh giá, nhận xét xác đáng quan niệm của Hêgen về bản chất của triết học trong toàn bộ hệ thõng triết học của ông, các tác giả đã trình bày một cách cụ thể hơn vấn đề này trong các tác phẩm triết học chủ yếu của Hêgen -"Hiện tượng học tinh thần", "Khoa học lôgíc", "Triết học tinh thần" ở Chương II và Chương III của cuốn sách.




Ở đây, một lần nữa, các tác giả cuốn sách chỉ rõ, nguyên lý về sức mạnh tuyệt đối của lý tính vẫn được Hêgen coi là nguyên lý xuất phát để giải quyết mọi vấn đề khác. Chính lập trường duy lý cực đoan đó đã tạo ra cả ưu điểm lân khuyết điểm của triết học Hêgen. "Lập trường triết học duy lý chủ nghĩa, các tác giả cuốn sách kết luận, đã cho phép Hêgen tạo dựng được một quan niệm chứa đựng rất nhiều hạt nhân hợp lý về bản thân triết học với tư cách một quá trình lịch sử có biện chứng riêng của mình. Hêgen quan niệm hệ thống triết học của ông là sự kế thừa và "vượt bỏ " tất cả các hệ thống triết học trước đó. Và đây là một đóng góp to lớn của Hêgen. Nhưng tuân thủ nguyên lý vê sức mạnh tuyệt đối của lý tính với tư cách bản nguyên của mọi tồn tại, với tư cách cái tự triển khai và tự nhận thức mình trong tiến trình phát triển lịch sử, Hêgen đã có một quan niệm bao chứa không ít những hạn chế về bản chất của triết học, về quá trình hình thành triết học với tư cách một khoa học".




Có thể nói , toàn bộ nội dung của cuốn sách này nhằm mục đích lý giải và làm sáng tỏ thêm những luận điểm nêu trên. Cách tiếp cận độc đáo đó của các tác giả đối với di sản triết học đồ sộ của Hêgen xứng đáng được coi là một khám phá khoa học mang tính gợi mở cho những ai quan tâm tới triết học Hêgen nói riêng, tới lịch sử triết học nhân loại nói chung. Làm rõ đặc trưng bản chất duy lý, tự biện và hết sức trừu tượng trong hệ thống triết học Hêgen, có thể nói, là một công việc không ít khó khăn. Song, với một trình độ hiểu biết sâu sắc về triết học Hêgen, với một sự cố gắng lớn, công trình khoa học đáng trân trọng này đã cho chúng ta thấy vì sao hệ thống triết học của Hêgen cùng với triết học Phoiơbăc nói riêng, nền triết học cổ điển Đức nói chung được coi là một trong những tiền đề lý luận của chủ nghĩa Mác. Rằng triết học Mác đã kế thừa một cách có phê phán và cách mạng như thế nào đối với những di sản tinh thần của quá khứ khi tiếp thu cái "hạt nhân hợp lý" trong triết học Hêgen.




Thiết nghĩ, với việc làm rõ cái "hạt nhân hợp lý " trong hệ thống triết học đồ sộ của Hêgen - phép biện chứng, nhấn mạnh tinh thần đấu tranh của Hêgen với thuyết không thể biết, đánh giá cao quan điểm về lịch sử, niềm tin của Hêgen vào sức mạnh và khả năng lý tính của con người, các tác giả cuốn sách đã cho độc giả thấy rõ, vì sao cho đến nay, Hêgen và hệ thống triết học của ông đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong tất cả các lĩnh vực của triết học. Công trình khoa học này xứng đáng được coi là một đóng góp bổ ích cho công việc nghiên cứu, giảng dạy và tìm hiểu về nguồn gốc hình thành triết học nói chung, phép biện chứng duy vật nói riêng, cho việc nghiên cứu, giảng dạy và tìm hiểu lịch sử triết học nhân loại.




(Theo Tạp chí Triết học-Chungta)

Thế nào là một bài viết có tính triết học?

(Nguyễn Hữu Đễ-Tạp chí Triết học)

Thông qua bài viết này, tác giả đưa ra những ý kiến trao đổi xoay quanh vấn đề đánh giá tính triết học của một bài viết. Sau khi phân tích một số điểm cần có sự thống nhất, tác giả đã luận giải để làm rõ ràng, một bài viết được coi là có tính triết học phải thể hiện được ít nhất một trong những nội dung sau: 1) Đề cập đến những vấn đề triết học chung, 2) Nêu lên những vấn đề triết học cuộc sống, 3) Đề cập đến những vấn đề của các khoa học khác từ góc độ triết học. Theo tác giả, đây là vấn đề không đơn giản, không dễ dàng. Vì vậy, để có sự lý giải thực sự thuyết phục, có tính khoa học và sớm xác định hệ tiêu chí đánh giá cụ thể, chính xác về tính triết học của một bài viết, cần có sự nghiên cứu, trao đổi của các chuyên gia trong lĩnh vực này.


Vấn đề "Thế nào là một bài viết có tính triết học?" tưởng như đơn giản, nhưng để có tiêu chí đánh giá một cách cơ bản, thống nhất, được nhiều người nhất trí lại cần phải được phân tích, trao đổi, thảo luận một cách sâu sắc hơn, cụ thể hơn. Vì vậy, có thể nói, đây là vấn đề đã xuất hiện từ lâu nhưng việc trả lời một cách thoả đáng lại không hề dễ dàng, nhất là trong tình hình người nghiên cứu triết học được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin như hiện nay.

Để lý giải vấn đề này, trước hết chúng ta cần thống nhất một số luận điểm cơ bản nhằm phân biệt triết học với các lĩnh vực tri thức khác ngoài triết học. Tôi nói "ngoài triết học” chứ không phải là "các khoa học khác". Bởi nói "ngoài triết học" sẽ bao trùm được nhiều lĩnh vực hơn, chẳng hạn như quan điểm sống, quan điểm chính trị, tư duy thường ngày… Lâu nay, chúng ta vẫn thường nhất trí một cách khái quát rằng, triết học khác các khoa học khác ở chức năng thế giới quan và phương pháp luận của nó. Đối tượng nghiên cứu của triết học là toàn bộ thế giới vật chất và tư duy của con người. Phương pháp nghiên cứu của nó là khái quát hoá, trừu tượng hóa cao nhất, là đi từ trừu tượng đến cụ thể, là kết hợp logic - lịch sử ở tầm bao quát nhất…

Nói tóm lại, cái mà triết học nghiên cứu là rộng nhất, bao trùm nhất, gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Vì thế, phương pháp nghiên cứu của nó cũng phải “lớn” nhất, có thể dùng để nhận thức được về đối tượng nghiên cứu. Nhờ vậy, chúng ta có các luận điểm, quan điểm… ở tầm triết học, ở tầm khoa học liên ngành, ở các khoa học cụ thể và cả ở tầm đời thường ngày. Điều đó lý giải rằng, tại cùng một quan niệm, khái niệm, phạm trù lại được nhiều ngành sử dụng như vậy. Và khi sử dụng ở các tầm khác nhau như thế nội dung của nó đã ít nhiều thay đổi rộng hơn hoặc hẹp hơn, sâu sắc hoặc kém sâu sắc hơn.

Luận điểm thứ hai chúng ta cần nhất trí là, khi nói một bài viết nào đó có tính triết học, trước hết bài viết ấy phải dựa trên cơ sở triết học Mác - Lênin. Như chúng ta biết, cho đến nay, triết học Mác - Lênin vẫn là đỉnh cao của tư duy triết học loài người và bản thân triết họe Mác - Lênin đã bao chứa trong nó toàn bộ tinh hoa tư tưởng triết học của nhân loại trước đó. Vì thế, khi xây dựng đường lối xây dựng xã hội mới ở nước ta hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có triết học, và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận.

Tất nhiên, ai đó có thể phủ nhận điều này mà bài viết của người đó vẫn có thể có tính triết học (vì rất nhiều nhà tư tưởng trước C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin cũng như các tác gia triết học hiện đại sau này đều là những nhà triết học và không thể nói các tác phẩm của họ không có tính triết học), nhưng đó là triết học xa rời thực tế và ít nhiều không phản ánh đúng hiện thực khách quan. Giả sử sau này có một hệ thống triết học khác cao hơn triết học Mác - Lênin thì trong trường hợp như vậy, một bài viết từ lập trường triết học Mác - Lênin cũng vẫn được coi là có tính triết học. Tất nhiên, ở đây, chúng ta đề cập đến vấn đề từ một lập trường được coi là duy nhất đúng đắn, tuy nó vẫn cần tiếp tục có sự bổ sung và phát triển. Xa rời lập trường đó, bài viết đã coi như bị loại bỏ mà không cần xét thêm gì nữa.

Một luận điểm nữa mà chúng ta cũng cần có sự nhất trí, đó là xem xét triết học Mác - Lênin theo phân tầng cấu trúc của nó. Có thể xem xét nó như là triết học chung, triết học xã hội, triết học chính trị, triết học văn hoá, triết học đạo đức... Điều này liên quan đến vấn đề vận dụng triết học Mác - Lênin để giải quyết các vấn đề cụ thể hay là mở rộng triết học Mác - Lênin sang các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, hoặc là nghiên cứu các lĩnh vực khác đó theo cách tiếp cận triết học. Bởi vì, dù những vấn đề đó được lý giải theo phương diện nào thì một bài viết thể hiện được một trong những phương diện ấy cũng đã mang tính triết học rồi. Về ý này, tác giả biên soạn cuốn Những kiên giải về triết học khoa học đã viết: "Triết học là tinh hoa của tinh thần thời đại nên nó không những phát triển theo một mặt bằng mà còn theo khối, theo tầng lớp: thứ nhất là lý luận cơ bản về bản thân triết học, thứ hai là sự kết hợp giữa triết học và cuộc sống hiện thực, thứ ba là sự giao thoa giữa triết học và các ngành khoa học khác". Theo đó, bài viết sẽ có tính triết học nếu nó thể hiện được ít nhất một trong ba nội đung trên.

Trên cơ sở sự nhất trí trên, có thể nói rằng, một bài viết có tính triết học phải thể hiện được một trong những ý sau:

Thứ nhất, thông qua việc luận giải, khái quát những thành tựu của các khoa học khác, bài viết minh chứng cho một luận điểm, quan điểm nào đó của triết học (chẳng hạn, chứng minh mối liên hệ phổ biến hoặc các quy luật của phép biện chứng…).

Thứ hai, từ các quan điểm, luận điểm của triết học Mác - Lênin, tác giả làm rõ cơ sở lý luận và phương pháp luận cho những nghiên cứu của một ngành khoa học nào đó. Đây có thể tạm coi là sự cụ thể hoá vai trò của triết học trong mỗi ngành khoa học cụ thể.

Thứ ba, trên cơ sở những thành tựu và phát minh mới của các ngành khoa học khác, bài viết làm sâu sắc hơn, phong phú hơn (hoặc đưa ra quan điểm triết học mới) những nội dung của hệ thống quan điểm triết học Mác - Lênin.

Như vậy, một bài viết có tính triết học phải thể hiện được ít nhất một trong những nội dung trên. Dựa trên những tiêu chí đó, chúng ta sẽ có những bài viết thuần tuý triết học, có những bài viết thể hiện quan điểm triết học và có những bài viết nghiên cứu các vấn đề đặt ra từ quan điểm triết học. Điều đó có thể được coi là tương ứng với các cấp độ cấu trúc của triết học: triết học, triết học ứng dụng và ứng dụng triết học. Nếu nhìn theo lát cất khác, ta có triết học bao gồm cả mặt bản thể luận và nhận thức luận, triết học bản thể luận, triết học nhận thức luận. Tương ứng với chúng, ta có những ngành triết học trong những lĩnh vực cụ thể của thế giới khách quan: triết học khoa học, triết học xã hội, triết học văn hoá...

Qua đó ta thấy, để đánh giá một bài viết có tính triết học hay không, trước hết phải quy bài viết đó thuộc về đồng nào, từ đó chỉ ra nội dung của nó đã đáp ứng được yêu cầu của dạng đó hay chưa. Nếu không làm như vậy, người ta rất có thể đưa ra nhận xét về một bài viết hoặc là thiếu, hoặc là không có tính triết học. Nhưng khi đặt vấn đề bài viết đó "thiếu” hoặc "không" có tính triết học như thế nào thì người đánh giá lại rất lúng túng, hoặc trả lời một cách chung chung và mơ hồ. Nếu không dựa trên một tiêu chí hoặc một hệ tiêu chí cụ thể nào đó, việc đánh giá một bài viết có tính triết học hay không rất dễ rơi vào một trong các trường hợp sau:

Đánh giá một cách chủ quan, cảm tính.

Không có sự thống nhất trong Hội đồng hoặc nhóm những người đánh giá. Người này dựa vào tiêu chí này đánh giá là "không", nhưng người khác lại nói là "có". Về vấn đề này, ta có thể nêu thí dụ sau để minh họa. Chẳng hạn, một bài viết về quan hệ giữa giáo dục - đào tạo và vấn đề phát huy nguồn lực con người. Nội dung bài viết trình bày vai trò của giáo dục - đào tạo đối với việc xây dựng nguồn lực con người có chất lượng cao, phân tích khá sâu những vấn đề thuộc giáo dục - đào tạo, chẳng hạn như vốn đầu tư, công nghệ giáo dục và một loạt các thành tựu giáo dục - đào tạo của các nước như Singapo, Đài Loan, Hàn Quốc… được đưa ra làm dẫn chứng. Khi đánh giá bài viết này, có ý kiến cho rằng, bài viết ít tính triết học mà thiên về ngành giáo dục - đào tạo. Nhưng lại có ý kiến khác cho rằng, triết học chính là mối liên hệ biện chứng và bài viết đã phân tích được mối quan hệ giữa giáo dục - đào tạo và phát huy nguồn lực con người, nên có tính triết học. Tất nhiên, đây chỉ là thí dụ, song nó khá điển hình trong việc đánh giá các bài viết, luận văn, luận án những năm gần đây. Một bài viết triết học, một luận văn, luận án triết học mà dung lượng khá lớn dành cho những vấn đề cụ thể, trong khi chức năng thế giới quan, phương pháp luận của triết học không hề được xét đến thì có thể coi là bài viết thuộc lĩnh vực triết học được chăng? Còn mối liên hệ, có khoa học nào hoặc sự kiến giải khoa học nào lại không đề cập đến? Khoa học nói chung có thể nghiên cứu cái gì ngoài những mối liên hệ? Trên thực tế, chính vì không có tiêu chí rõ ràng về vấn đề này nên nhiều học trò hay người viết đã phải hứng chịu sự đánh giá chủ quan của người thẩm định. Hệ quả là người ta phải cố tạo nên "quan hệ tốt" với người đánh giá. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân sinh ra tiêu cực trong quan hệ giữa người được đánh giá và người bị đánh giá.

Hiện nay, còn có tình trạng người viết thuộc lĩnh vực triết học chỉ chú trọng đến những vấn đề cụ thể do xã hội đặt ra, mà quên đi cơ sở lý luận triết học Mác - Lênin. Vì thế, để bài viết "có tính triết học", tác giả cố gắng có nhiều trích dẫn C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin. Theo họ, như thế sẽ đảm bảo tính triết học của bài viết. Thực ra, trong một nghiên cứu nghiêm túc, việc trích dẫn các tác giả kinh điển chỉ được dùng đến khi thật cần thiết. Như chúng ta đã biết, nếu tác giả là người đang học tập triết học thì việc trích dẫn là cần thiết, nhưng đối với người làm công tác nghiên cứu triết học thì lại không nên quá chú trọng vào điều đó. Vấn đề là ở chỗ, người nghiên cứu phải nắm được cái "thần" trong quan điểm, luận điểm của các tác gia kinh điển để từ đó, phát triển lên, chứ không phải dẫn nguyên văn, nguyên ý của những người đi trước. Hơn nữa, việc trích dẫn hiện nay thường theo hướng: sau khi trình bày nội dung cơ bản của câu văn định trích dẫn, tác giả lại trích dẫn chính câu văn đó với hàm ý rằng, chính các nhà kinh điển đã khẳng định như vậy. Việc tiếp theo cần triển khai như thế nào thì rất ít người làm được. Vì vậy, có người có nhiều bài viết, nhiều công trình song ít được người trong ngành chú ý đến với tư cách nhà khoa học. Thực trạng này không chỉ diễn ra trong ngành triết học, mà còn biểu hiện trong một số ngành khoa họe xã hội khác nữa. Chúng ta đã biết rằng, hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin đồ sộ như vậy, nhưng khi đánh giá sự đóng góp thực sự của các ông, người ta thường chỉ nói đến hai nội dung chính: chủ nghĩa duy vật lịch sử chủ yếu là quan điểm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư.

Vì vậy, đối với người nghiên cứu, khi viết bài nên chú trọng đến ý tưởng mới hoặc cách đặt vấn đề mới hơn là việc "tầm chương trích cú”. Tính triết học của một bài viết không phụ thuộc vào việc trích dẫn tư tưởng các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác. Nhưng, làm thế nào để bài viết có tính triết học? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần lưu ý đến một số khía cạnh sau:

Thứ nhất, việc lựa chọn đề tài nghiên cứu. Phải thấy được vấn đề triết học trong đối tượng được lựa chọn. Nói cách khác, sự vật, hiện tượng được chọn là có vấn đề về mặt thế giới quan hoặc phương pháp luận. Theo ngôn ngữ khoa học, đó là "tình huống có vấn đề”.

Thứ hai, phương pháp trình bày. Bài viết được trình bày theo logic của sự vật, hiện tượng để dẫn tới kết luận có tính chất thế giới quan hay phương pháp luận, hoặc từ thế giới quan, phương pháp luận triết học, bài viết phân tích vấn đề nhằm chỉ ra bản chất, nguyên nhân của sự vật, hiện tượng đó.

Thứ ba, phần giải pháp. Đây là hệ quả của sự phân tích trên, được thể hiện ở việc khẳng định những luận điểm, quan điểm của triết học Mác - Lênin hoặc đưa ra những luận điểm, quan điểm mới mang ý nghĩa thế giới quan, phương pháp luận. Bài viết phải tránh đi vào những giải pháp cụ thể, bởi như thế, vô hình trung, triết học lại làm thay các khoa học khác hoặc các ngành khác. Trên thực tế, triết học không bao giờ có thể làm thay những công việc cụ thể đó và không bao giờ đạt được những kết luận như các khoa học cụ thể trực tiếp đưa ra. Chúng ta không bao giờ được quên chức năng chính của triết học là thế giới quan và phương pháp luận. Đưa ra các giải pháp cụ thể là chức năng của các ngành khoa học cụ thể có liên quan. Cũng vì lý do đó mà chủ nghĩa Mác được chia thành ba bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Trong đó, chủ nghĩa cộng sản khoa học là hệ quả tất yếu của hai bộ phận kia. Vì vậy, nhiều tác phẩm của Mác thuộc chủ nghĩa cộng sản khoa học hơn là tác phẩm triết học.

Tất nhiên, để đạt được những điều này, ít nhất người viết phải có kiến thức triết học căn bản. Đây là một yếu tố có ảnh hưởng quyết định đối với tính triết học của bài viết.

Có thể có rất nhiều người không đồng ý hoặc phản bác toàn bộ những kiến giải trên đây. Bởi lẽ, vấn đề tiêu chí của một bài viết có tính triết học và làm thế nào để bài viết có tính triết học không đơn giản chỉ như những nội dung mà tôi đã trình bày. Để có được cách lý giải thật sự thuyết phục và có tính khoa học, chúng ta cần đi sâu tìm tòi, tổng kết, tập hợp nhiều hơn nữa ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực này. Mục đích của tác giả bài viết này chỉ nhằm nêu ra vấn đề tưởng như rất cũ, rất đơn giản (vì xưa nay chúng ta vẫn làm và làm thường xuyên) để góp vào việc xác định một hệ thống tiêu chí cụ thể, vừa giúp người thẩm định bài viết thuộc lĩnh vực triết học có cơ sở để đánh giá chuẩn xác, vừa giúp người viết khỏi lạc đề khi viết bài về lĩnh vực triết học và cũng là cơ sở để họ có thể tranh luận với người thẩm định. Với mục đích đó, tôi mong mọi người hãy đưa ra những tiêu chí của mình (vì bất cứ ai, với tư cách thầy giáo, người hướng dẫn, người phản biện… đều đã từng nhận xét tính triết học của một bài viết, cho nên họ đều đã có tiêu chí để đánh giá) và trên cơ sở đó, sớm hình thành nên hệ thống tiêu chí theo cấp độ sau:

(1) Chung nhất, khái quát nhất.(2) Chi tiết hơn, cụ thể hơn.(3) Hoàn chỉnh hơn, khoa học hơn.
Cuối cùng, tôi thừa nhận rằng, những tiêu chí mà tôi đưa ra ít nhiều còn mang tính chủ quan, vì chúng chưa được chứng minh và luận giải một cách đầy đủ, khoa học và chắc chắn còn nhiều vấn đề mà bài viết này chưa thể đề cập đến. Rất mong được mọi người quan tâm trao đổi.

(Theo Tạp chí Triết học, chungta)